(Baothanhhoa.vn) - Kể từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã trải qua 12 kỳ đại hội. Mỗi kỳ đại hội Đảng là một mốc lịch sử quan trọng ghi nhận, đánh dấu những thắng lợi, thành tựu và những bài học kinh nghiệm của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Lịch sử các kỳ Đại hội Đảng toàn quốc

Kể từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã trải qua 12 kỳ đại hội. Mỗi kỳ đại hội Đảng là một mốc lịch sử quan trọng ghi nhận, đánh dấu những thắng lợi, thành tựu và những bài học kinh nghiệm của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam - Mốc son chói lọi đánh dấu bước ngoặt lịch sử vĩ đại của cách mạng Việt Nam

Lịch sử các kỳ Đại hội Đảng toàn quốc

Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1930. Ảnh: Báo Nhân Dân.

Thời gian: 6/1 đến đầu tháng 2/1930. Địa điểm: Hồng Kông (Trung Quốc).

Với tư cách là phái viên của Quốc tế Cộng sản có đầy đủ quyền quyết định mọi vấn đề liên quan phong trào cách mạng ở Đông Dương, Nguyễn Ái Quốc đã triệu tập hội nghị đại biểu của Đông Dương Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng để bàn việc thống nhất thành một đảng.

Từ ngày 6/1 đến đầu tháng 2/1930, Hội nghị họp tại Hồng Kông (Trung Quốc) dưới sự chủ trì của Nguyễn Ái Quốc. Hội nghị nhất trí hợp nhất Đông Dương Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng để lập ra một đảng duy nhất lấy tên Đảng Cộng sản Việt Nam.

Hội nghị thông qua các văn kiện: Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng.

Những văn kiện được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng chính là Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng. Đó là nền tảng quan trọng xây dựng nên đường lối và phương pháp cách mạng của Đảng ta.

Hội nghị quyết định chủ chương xây dựng các tổ chức Công hội, Nông hội, Hội Phản đế. Theo đó, Công hội và Nông hội thu hút những công nhân và nông dân không thể kết nạp vào Đảng. Các tầng lớp trí thức tiểu tư sản vào Hội Phản đế.

Ngày 24/2/1930, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam. Cả ba tổ chức cộng sản Việt Nam đã thống nhất trọn vẹn vào một đảng cộng sản duy nhất: Đảng Cộng sản Việt Nam.

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là một mốc son chói lọi, đánh dấu bước ngoặt lịch sử vĩ đại của cách mạng Việt Nam; là kết quả tất yếu của sự kết hợp lý luận giải phóng dân tộc của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng cách mạng Hồ Chí Minh với phong trào công nhân và phong trào yêu nước ở Việt Nam trong những năm 20 của thế kỷ XX.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng, tháng 9/1960 quyết nghị “từ nay trở đi sẽ lấy ngày 3 tháng 2 dương lịch mỗi năm làm ngày kỷ niệm thành lập Đảng”.

Tháng 10/1930, Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương lâm thời có ý nghĩa như một Đại hội cũng tổ chức tại Hồng Kông (Trung Quốc), do đồng chí Trần Phú chủ trì, quyết định đổi tên Đảng thành Đảng Cộng sản Đông Dương, thông qua bản Luận cương chính trị của Ðảng Cộng sản Ðông Dương do đồng chí Trần Phú khởi thảo. Hội nghị bầu Ban Chấp hành Trung ương chính thức gồm 7 đồng chí: Trần Phú, Nguyễn Trọng Nhã, Lê Mao, Trần Văn Lan, Nguyễn Phong Sắc, A Lầu (Lưu Lập Đạo), Ngô Đức Trì. Đồng chí Trần Phú làm Tổng Bí thư của Đảng.

Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng tháng 10/1930 có ý nghĩa quan trọng trong việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức, trực tiếp là đối với cao trào cách mạng 1930-1931.

Đại hội lần thứ I của Đảng - Chống đế quốc, chống chiến tranh

Thời gian: 27/03 đến 31/03/1935. Địa điểm: Ma Cao, Trung Quốc.

Đại hội lần thứ I của Đảng đánh giá tình hình thế giới và trong nước, nêu bật những thành công của Liên Xô và phong trào cách mạng của nhân dân lao động nhiều nước trên thế giới, khẳng định chủ nghĩa xã hội là tất yếu lịch sử.

Đại hội nhận định hệ thống tổ chức của Đảng đã được khôi phục và phong trào cách mạng có tiến triển. Các cuộc đấu tranh của quần chúng trong hai năm qua đều giành được thắng lợi ở mức độ khác nhau.

Đại hội nêu 3 nhiệm vụ chủ yếu của Đảng trong thời gian trước mắt:

+ Củng cố và phát triển Đảng;

+ Thu phục quảng đại quần chúng;

+ Chống chiến tranh đế quốc.

Lần đầu tiên, Đại hội đã ra một loạt các Nghị quyết hết sức quan trọng để tập hợp lực lượng, xây dựng phong trào quần chúng: Nghị quyết về vận động công nhân, nông dân, binh lính, phụ nữ, thanh niên; về công tác liên minh phản đế; về công tác trong các dân tộc thiểu số; về đội tự vệ và cứu tế đỏ.

Đại hội thông qua Điều lệ Đảng và điều lệ các tổ chức quần chúng của Đảng.

Đại hội bầu Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Đồng chí Nguyễn Ái Quốc được cử làm đại diện của Đảng ở Quốc tế Cộng sản. Đồng chí Lê Hồng Phong được bầu làm Tổng Bí thư của Đảng. Tháng 7/1936, đồng chí Hà Huy Tập được cử làm Tổng Bí thư của Đảng. Tháng 3/1938, đồng chí Nguyễn Văn Cừ được cử làm Tổng Bí thư. Tháng 5/1941, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp tại Pác Bó (Cao Bằng) đã bầu đồng chí Trường Chinh làm Tổng Bí thư.

Đại hội lần thứ I của Đảng là một sự kiện lịch sử quan trọng, đánh dấu thắng lợi của cuộc đấu tranh bảo vệ và khôi phục hệ thống tổ chức Đảng từ Trung ương đến địa phương, thống nhất được phong trào cách mạng dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng, tạo điều kiện để phong trào cách mạng bước vào thời kỳ đấu tranh mới.

Đại hội lần thứ II của Đảng - Kháng chiến, kiến quốc

Lịch sử các kỳ Đại hội Đảng toàn quốc

Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc diễn văn tại Đại hội lần thứ II của Đảng ở căn cứ địa Tuyên Quang. Ảnh tư liệu.

Thời gian: 11/02 đến 19/02/1951. Địa điểm: Xã Vinh Quang (nay là xã Kim Bình), huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang.

Căn cứ vào thực tiễn yêu cầu nhiệm vụ tổ chức kháng chiến của ba dân tộc Đông Dương, Đại hội quyết định tách Đảng Cộng sản Đông Dương để thành lập ở mỗi nước Việt Nam, Lào, Campuchia một đảng riêng biệt có cương lĩnh phù hợp với đặc điểm mỗi nước. Ở Việt Nam, Đại hội quyết định thành lập Đảng Lao động Việt Nam. Đại hội đã nghiên cứu, thảo luận Báo cáo chính trị, Báo cáo bàn về cách mạng Việt Nam, Báo cáo về tổ chức và Điều lệ của Đảng, các báo cáo bổ sung về Mặt trận dân tộc thống nhất, chính quyền dân chủ nhân dân, quân đội nhân dân, kinh tế tài chính, văn nghệ nhân dân.

Báo cáo chính trị do Chủ tịch Hồ Chí Minh trình bày tổng kết những kinh nghiệm phong phú của Đảng trong hơn 20 năm lãnh đạo cách mạng, vạch ra những phương hướng, nhiệm vụ đưa cuộc kháng chiến thắng lợi hoàn toàn. Báo cáo khẳng định đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài vì độc lập thống nhất, dân chủ của Đảng là đúng đắn, cuộc kháng chiến của nhân dân ta chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ nhất định thắng lợi. Báo cáo nêu hai nhiệm vụ chính của Đảng lúc này là:

+ Đưa kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn.

+ Tổ chức Đảng Lao động Việt Nam.

Đại hội tổng kết quá trình kháng chiến chống thực dân Pháp và hoàn thiện đường lối cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân.

Đại hội quyết định đưa Đảng ra hoạt động công khai lấy tên là Đảng Lao động Việt Nam, thông qua Chính cương, Điều lệ và Tuyên ngôn của Đảng. Đại hội quyết định sẽ thành lập những tổ chức cách mạng phù hợp hoàn cảnh Lào và Campuchia. Đảng Lao động Việt Nam có nghĩa vụ giúp đỡ các tổ chức cách mạng Lào và Campuchia lãnh đạo kháng chiến của hai dân tộc ấy giành thắng lợi cuối cùng.

Ban Chấp hành Trung ương của Đảng do Đại hội bầu ra gồm 29 đồng chí. Đồng chí Hồ Chí Minh được bầu giữ chức Chủ tịch Đảng. Bộ Chính trị do Trung ương bầu gồm 7 Ủy viên chính thức: đồng chí Hồ Chí Minh, Trường Chinh, Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Chí Thanh, Hoàng Quốc Việt, một Ủy viên dự khuyết là đồng chí Lê Văn Lương. Đồng chí Trường Chinh được bầu lại làm Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng.

Đại hội đại biểu lần thứ II của Đảng là một sự kiện lịch sử trọng đại, đánh dấu bước trưởng thành mới về tư tưởng, đường lối chính trị của Đảng. Đảng từ bí mật trở lại hoạt động công khai với tên gọi Đảng Lao động Việt Nam, đáp ứng yêu cầu phát triển cách mạng.

Đại hội lần thứ III của Đảng - Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Miền Bắc và đấu tranh hòa bình thống nhất nước nhà

Lịch sử các kỳ Đại hội Đảng toàn quốc

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng họp tại Thủ đô Hà Nội từ ngày 5 - 10/9/1960. Ảnh: Báo Nhân Dân

Thời gian: 05/09 đến 10/09/1960. Địa điểm: Thủ đô Hà Nội.

Căn cứ vào đặc điểm đất nước tạm thời bị chia cắt làm hai miền (miền Bắc hoàn toàn giải phóng, miền Nam còn chịu sự cai trị của chủ nghĩa đế quốc và tay sai), Đại hội đề ra đường lối chung cho cách mạng Việt Nam: đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, đồng thời đẩy mạnh cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam nhằm xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh. Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III chỉ rõ:

Hai nhiệm vụ cách mạng ở miền Bắc và miền Nam thuộc hai chiến lược khác nhau, mỗi nhiệm vụ nhằm giải quyết yêu cầu cụ thể của mỗi miền trong hoàn cảnh nước nhà tạm bị chia cắt làm hai. Song hai nhiệm vụ đó trước mắt đều có một mục tiêu chung là thực hiện hòa bình thống nhất Tổ quốc.

Miền Bắc là căn cứ địa chung của cả nước, sự lớn mạnh không ngừng của miền Bắc không những nâng cao lòng tin tưởng và cổ vũ tinh thần hăng hái cách mạng của đồng bào yêu nước miền Nam, mà còn làm cho lực lượng so sánh giữa cách mạng và phản cách mạng trên phạm vi cả nước ta càng nghiêng về phía cách mạng, tạo điều kiện thuận lợi cho cách mạng miền Nam phát triển mạnh mẽ và giành thắng lợi cuối cùng...

Mặt khác muốn cho miền Bắc có hoàn cảnh hòa bình để xây dựng chủ nghĩa xã hội, muốn giữ gìn hòa bình ở Đông Dương và trên thế giới, miền Nam cần phải kiên quyết đấu tranh chống đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, làm thất bại chính sách xâm lược và chính sách chiến tranh của chúng, đánh đổ ách thống trị tàn bạo của chúng. Ngoài con đường đấy ra, không có con đường nào khác.

Đối với cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, Đại hội thông qua Kế hoạch nhà nước 5 năm lần thứ nhất (1961 - 1965) với những nhiệm vụ cơ bản:

+ Ra sức phát triển công nghiệp và nông nghiệp, ưu tiên phát công nghiệp nặng, phát triển toàn diện nông nghiệp

+ Hoàn thành công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp

+ Nâng cao trình độ văn hóa của nhân dân

+ Cải thiện đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân lao động

+ Củng cố quốc phòng, tăng cường trật tự an ninh, bảo vệ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ởmiền Bắc

+ Nghị quyết về nhiệm vụ và đường lối của Đảng trong giai đoạn mới.

* Đại hội thông qua:

+ Nghị quyết về ngày thành lập Đảng

+ Điều lệ Đảng (sửa đổi)

+ Lời kêu gọi của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng Lao động Việt Nam.

Đại hội bầu Ban Chấp hành Trung ương khóa mới bao gồm 78 đồng chí, trong đó có 47 ủy viên chính thức và 31 ủy viên dự khuyết. Đồng chí Hồ Chí Minh được bầu tiếp tục làm Chủ tịch Đảng; đồng chí Lê Duẩn được bầu làm Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng.

Đại hội lần thứ IV của Đảng - Hoàn thành sự nghiệp thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội

Lịch sử các kỳ Đại hội Đảng toàn quốc

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV. Ảnh: Báo Nhân Dân

Thời gian: 14/12 đến 20/12/1976. Địa điểm: Thủ đô Hà Nội.

Ðại hội nghe Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Ðảng; Báo cáo về phương hướng, nhiệm vụ và mục tiêu chủ yếu của kế hoạch 5 năm (1976-1980); Báo cáo tổng kết công tác xây dựng Ðảng và sửa đổi Ðiều lệ Ðảng.

* Đại hội quyết định

- Đường lối cách mạng XHCN ở Việt Nam trong giai đoạn mới.

Các văn kiện của Đại hội Đảng lần thứ IV đã đánh giá, thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mãi đi vào lịch sử dân tộc như một mốc son chói lọi nhất và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX.

Đại hội xác định đường lối chung của cách mạng xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới ở nước ta là: Nắm vững chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động; tiến hành đồng thời 3 cuộc cách mạng: cách mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học-kỹ thuật, cách mạng tư tưởng và văn hóa, trong đó, cách mạng khoa học-kỹ thuật là then chốt; đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền văn hóa mới, xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa; xóa bỏ chế độ người bóc lột người, xóa bỏ nghèo nàn và lạc hậu; không ngừng đề cao cảnh giác, thường xuyên củng cố quốc phòng, giữ gìn an ninh chính trị và trật tự xã hội; xây dựng thành công Tổ quốc Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất và xã hội chủ nghĩa; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.

- Phương hướng, nhiệm vụ và mục tiêu chủ yếu của kế hoạch 5 năm (1976-1980):

Phát triển và cải tạo kinh tế; phát triển khoa học-kỹ thuật; đẩy mạnh cách mạng tư tưởng và văn hóa, xây dựng và phát triển nền văn hóa mới; tăng cường nhà nước xã hội chủ nghĩa, phát huy vai trò của các đoàn thể, làm tốt công tác quần chúng; nhiệm vụ quốc tế và chính sách đối ngoại của Đảng; nâng cao vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.

* Đại hội thông qua:

+ Nghị quyết đổi tên Đảng Lao động Việt Nam thành Đảng Cộng sản Việt Nam.

+ Bổ sung Điều lệ của Đảng, đặt lại chức vụ Tổng Bí thư thay chức Bí thư thứ nhất, quy định nhiệm kỳ của Ban Chấp hành Trung ương là 5 năm.

Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Trung ương khóa mới, gồm 101 ủy viên chính thức và 32 ủy viên dự khuyết. Đồng chí Lê Duẩn được bầu làm Tổng Bí thư của Đảng.

Đại hội lần thứ V của Đảng - Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa

Lịch sử các kỳ Đại hội Đảng toàn quốc

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng họp từ ngày 27 đến 31/3/1982 tại Thủ đô Hà Nội. Ảnh: Báo Nhân Dân.

Thời gian: 27/03 đến 31/03/1982. Địa điểm: Thủ đô Hà Nội.

Đại hội nghe Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng và nhiều báo cáo quan trọng khác. Đại hội đã chỉ ra nguyên nhân khách quan, chủ quan của khó khăn, yếu kém. Đại hội đã thẳng thắn nêu lên nguyên nhân chủ quan, đó là những sai lầm về lãnh đạo và quản lý kinh tế, quản lý xã hội. Việc nắm và hiểu tình hình thực tế, việc cụ thể hóa đường lối và chấp hành đường lối của Đảng có những khuyết điểm, sai lầm. Chưa thấy hết khó khăn, phức tạp của con đường đi lên CNXH từ một nền kinh tế mà sản xuất nhỏ còn phổ biến, duy trì quá lâu cơ chế quản lý hành chính, quan liêu bao cấp, chậm thay đổi các chính sách...

Trên cơ sở đó, Ðại hội đề ra phương hướng nhiệm vụ, mục tiêu chủ yếu về kinh tế-xã hội từ năm 1981 đến năm 1985 và những năm 80; khẳng định tiếp tục thực hiện đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa mà Ðại hội lần thứ IV của Ðảng đã vạch ra.

Ðại hội xác định: Những năm 1981-1985 là những năm phát triển thêm một bước, sắp xếp lại cơ cấu và đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa nền kinh tế quốc dân.

Ba mặt đó kết hợp chặt chẽ với nhau, nhằm cơ bản ổn định được tình hình kinh tế và xã hội, đáp ứng những nhu cầu cấp bách và thiết yếu nhất của đời sống nhân dân, giảm nhẹ những chỗ mất cân đối nghiêm trọng nhất của nền kinh tế, khắc phục một bước quan trọng tình trạng không bình thường về phân phối, lưu thông, tăng thêm tiền đề và điều kiện để tiến lên mạnh mẽ và vững chắc hơn trong những năm sau.

Trên cơ sở đó, Đại hội vạch ra phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu chủ yếu về kinh tế-xã hội từ năm 1981 đến 1985, đề ra hai nhiệm vụ chiến lược: Xây dựng CNXH và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.

- Đại hội thông qua:

+ Nghị quyết về phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu của kế hoạch 5 năm 1981-1985 và những năm 80 của thế kỷ XX;

+ Nghị quyết về xây dựng Đảng;

+ Bổ sung Điều lệ Đảng.

Đại hội bầu Ban Chấp hành Trung ương và đồng chí Lê Duẩn được bầu tiếp tục làm Tổng Bí thư của Đảng. Ngày 10/7/1986, Tổng Bí thư Lê Duẩn từ trần. Ban Chấp hành Trung ương họp phiên đặc biệt vào ngày 14/7/1986, bầu đồng chí Trường Chinh làm Tổng Bí thư của Đảng.

Đại hội lần thứ VI của Đảng - Quyết tâm đổi mới

Lịch sử các kỳ Đại hội Đảng toàn quốc

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng họp tại Hà Nội từ ngày 15 đến 18/12/1986. Ảnh: Báo Nhân Dân.

Thời gian: 15/12 đến 18/12/1986. Địa điểm: Thủ đô Hà Nội.

Ðại hội lần thứ VI đánh dấu sự đổi mới quan trọng của Ðảng trong lãnh đạo chính trị, tư tưởng, tổ chức. Với tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”, Ðại hội khẳng định những thành tựu đã đạt được trong nhiệm kỳ trước, đồng thời chỉ rõ: Tình hình kinh tế-xã hội đang có những khó khăn gay gắt: Sản xuất tăng chậm; hiệu quả sản xuất và đầu tư thấp; tài nguyên của đất nước chưa được khai thác tốt; lưu thông không thông suốt, phân phối rối ren; những mất cân đối lớn trong nền kinh tế chậm được thu hẹp, có mặt gay gắt hơn; quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa chậm được củng cố; đời sống nhân dân, nhất là công nhân, viên chức còn nhiều khó khăn; hiện tượng tiêu cực trong xã hội phát triển.

Nhìn chung, chúng ta chưa thực hiện được mục tiêu tổng quát do Ðại hội lần thứ V đề ra là cơ bản ổn định tình hình kinh tế-xã hội, ổn định đời sống nhân dân.

Trên cơ sở phân tích, đánh giá đúng đắn tình hình của đất nước, Ðại hội nghiêm khắc tự phê bình về những sai lầm, khuyết điểm. Ðổi mới tư duy, nhận thức rõ hơn về những quy luật khách quan của thời kỳ quá độ, kế thừa những thành tựu và kinh nghiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và những năm đầu khi nước nhà thống nhất, trải qua nhiều tìm tòi, khảo nghiệm từ thực tiễn, Ðại hội đề ra đường lối đổi mới.

Ðại hội xác định: Ðảng phải trưởng thành về lãnh đạo chính trị, phát triển và cụ thể hóa đường lối, đề ra những giải pháp đúng đắn đối với những vấn đề mới của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc. Ðể tăng cường sức chiến đấu và năng lực tổ chức thực tiễn của mình, Ðảng phải đổi mới về nhiều mặt: đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế, đổi mới tổ chức; đổi mới đội ngũ cán bộ; đổi mới phong cách lãnh đạo và công tác.

Ðại hội quyết định bổ sung và sửa đổi một số điểm cụ thể trong Ðiều lệ Ðảng cho phù hợp tình hình mới.

Ðổi mới toàn diện thật sự là ý Ðảng, lòng dân. Nghị quyết Ðại hội VI vào cuộc sống là quá trình thể nghiệm, tìm tòi, từng bước cụ thể hóa, phát triển và tổ chức thực hiện những định hướng lớn. Ðảng và Nhà nước vừa tập trung giải quyết những vấn đề kinh tế, xã hội cấp bách, giữ vững ổn định chính trị, vừa thực hiện đổi mới các lĩnh vực của đời sống xã hội. Các chủ trương, chính sách đổi mới bắt đầu mang lại kết quả rõ rệt, tình hình kinh tế và đời sống nhân dân dần được cải thiện, sinh hoạt dân chủ trong xã hội ngày càng được phát huy, lòng tin của nhân dân vào công cuộc đổi mới tăng lên.

Ðại hội bầu Ban Chấp hành Trung ương, đồng chí Nguyễn Văn Linh được bầu làm Tổng Bí thư của Ðảng. Các đồng chí: Trường Chinh, Phạm Văn Ðồng và Lê Ðức Thọ được giao trách nhiệm là Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Ðảng.

Đại hội lần thứ VII của Đảng - Tiếp tục công cuộc đổi mới đưa đất nước tiến lên theo con đường xã hội chủ nghĩa

Lịch sử các kỳ Đại hội Đảng toàn quốc

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng họp tại Thủ đô Hà Nội từ ngày 24 đến 27/6/1991. Ảnh: Báo Nhân Dân.

Thời gian: 24/06 đến 27/06/1991. Địa điểm: Thủ đô Hà Nội.

Ðại hội tổng kết việc thực hiện Nghị quyết Ðại hội VI và quyết nghị thông qua: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế-xã hội đến năm 2000; Báo cáo xây dựng Ðảng và sửa đổi Ðiều lệ Ðảng.

Ðại hội đúc rút những kinh nghiệm bước đầu về tiến hành công cuộc đổi mới. Đó là, phải giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình đổi mới. Đổi mới toàn diện, đồng bộ và triệt để, nhưng phải có bước đi, hình thức và cách làm phù hợp. Phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần phải đi đôi với tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước về kinh tế-xã hội. Tiếp tục phát huy sâu rộng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Phải quan tâm dự báo tình hình, kịp thời phát hiện và giải quyết đúng đắn những vấn đề mới nảy sinh trên tinh thần kiên định thực hiện đường lối đổi mới; tăng cường tổng kết thực tiễn và không ngừng hoàn chỉnh lý luận về con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được Đại hội thông qua, nêu rõ những đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng, những phương hướng cơ bản để xây dựng thành công Chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Cương lĩnh khẳng định: Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội:

- Do nhân dân lao động làm chủ.

- Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu.

- Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

- Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân.

- Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ.

- Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới.

Ðại hội bầu Ban Chấp hành Trung ương, đồng chí Ðỗ Mười được bầu làm Tổng Bí thư của Ðảng. Các đồng chí Nguyễn Văn Linh, Phạm Văn Ðồng, Võ Chí Công giữ trọng trách Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Ðảng.

Đại hội lần thứ VIII của Đảng - Tiếp tục đổi mới, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước

Lịch sử các kỳ Đại hội Đảng toàn quốc

Ðại hội lần thứ VIII của Ðảng diễn ra từ ngày 28/6 đến 1/7/1996, tại Hội trường Ba Ðình, Hà Nội. Ảnh: Báo Nhân Dân.

Thời gian: 28/06 đến 01/07/1996. Địa điểm: Thủ đô Hà Nội.

Ðại hội tổng kết 10 năm tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, 5 năm thực hiện Nghị quyết Ðại hội VII của Ðảng, đề ra mục tiêu, phương hướng, giải pháp thực hiện đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; bổ sung, sửa đổi Ðiều lệ Ðảng.

Ðại hội đánh giá tổng quát: Công cuộc đổi mới trong 10 năm đã thu được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa rất quan trọng. Nhiệm vụ do Ðại hội VII đề ra đã được hoàn thành cơ bản. Nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế-xã hội, nhưng một số mặt còn chưa vững chắc. Nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu của thời kỳ quá độ là chuẩn bị tiền đề cho công nghiệp hóa đã cơ bản hoàn thành, cho phép chuyển sang thời kỳ mới đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được xác định rõ hơn.

Nhận định đặc điểm tình hình thế giới, thời cơ và thách thức, Ðại hội xác định: Mục tiêu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa là xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất-kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.

Ðại hội đã xây dựng định hướng phát triển các lĩnh vực chủ yếu: Phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa; chính sách đối với các thành phần kinh tế; tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý kinh tế; phát triển khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo; xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; chính sách giải quyết một số vấn đề xã hội; quốc phòng và an ninh; chính sách đối ngoại; thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy vai trò làm chủ của nhân dân; tiếp tục cải cách bộ máy nhà nước, xây dựng và hoàn thiện nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam.

Ðại hội cũng đề ra phương hướng, nhiệm vụ xây dựng Ðảng ngang tầm đòi hỏi của thời kỳ mới. Ðó là, giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Ðảng. Nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất và năng lực cán bộ, đảng viên. Củng cố Ðảng về tổ chức, thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ. Chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ. Nâng cao sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng. Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Ðảng. Ðổi mới công tác kiểm tra và kỷ luật của Ðảng.

Ðại hội bầu BCHTW gồm 170 đồng chí. Ðồng chí Ðỗ Mười được bầu tiếp tục làm Tổng Bí thư của Ðảng. Các đồng chí Nguyễn Văn Linh, Phạm Văn Ðồng, Võ Chí Công làm Cố vấn BCHTW.

Tại hội nghị lần thứ tư, tháng 12/1997, BCHTW chấp thuận đề nghị của đồng chí Ðỗ Mười thôi giữ chức vụ Tổng Bí thư, bầu đồng chí Lê Khả Phiêu làm Tổng Bí thư của Ðảng. BCHTW suy tôn các đồng chí Ðỗ Mười, Lê Ðức Anh, Võ Văn Kiệt làm Cố vấn BCHTW Ðảng.

Đại hội lần thứ IX của Đảng - Phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa

Lịch sử các kỳ Đại hội Đảng toàn quốc

Ðại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Ðảng diễn ra từ ngày 19 đến 22/4/2001 tại Hà Nội. Ảnh: Báo Nhân Dân.

Thời gian: 19/04 đến 22/04/2001. Địa điểm: Thủ đô Hà Nội.

Ðại hội nhìn lại chặng đường 71 năm lãnh đạo cách mạng Việt Nam; tổng kết 5 năm thực hiện Nghị quyết Ðại hội VIII; 15 năm đổi mới đất nước, 10 năm thực hiện chiến lược kinh tế-xã hội, rút ra bài học kinh nghiệm, từ đó phát triển và hoàn thiện đường lối, định ra chiến lược phát triển đất nước trong 20 năm đầu của thế kỷ XXI; vạch ra phương hướng, nhiệm vụ xây dựng Ðảng ta ngang tầm đòi hỏi của dân tộc trong thời kỳ mới; sửa đổi, bổ sung Ðiều lệ Ðảng.

Ðại hội đã thông qua Báo cáo Chính trị với tiêu đề “Phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”.

Ðại hội đánh giá: Thực hiện Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế-xã hội (1991-2000), chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn và rất quan trọng. Nền kinh tế từ tình trạng hàng hóa khan hiếm nghiêm trọng nay sản xuất đã đáp ứng được các nhu cầu thiết yếu của nhân dân và nền kinh tế; từ cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp đã chuyển sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; từ chỗ chủ yếu chỉ có hai thành phần kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể đã chuyển sang nền kinh tế có nhiều thành phần, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Ðời sống các tầng lớp nhân dân được cải thiện. Ðất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội; phá được thế bị bao vây cấm vận, mở rộng được quan hệ đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.

Về những kinh nghiệm sau 15 năm thực hiện đường lối đổi mới, Ðại hội chỉ ra những bài học kinh nghiệm chủ yếu. Ðó là, trong quá trình đổi mới, phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Ðổi mới phải dựa vào nhân dân, vì lợi ích của nhân dân, phù hợp với thực tiễn, luôn luôn sáng tạo. Ðổi mới phải kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Ðường lối đúng đắn của Ðảng là nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp đổi mới.

Về đường lối phát triển kinh tế-xã hội, Ðại hội IX của Ðảng nêu rõ: Ðẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp; ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa; phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, hiệu quả, bền vững; tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn hóa, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường; kết hợp phát triển kinh tế-xã hội với tăng cường quốc phòng - an ninh.

Mục tiêu của Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 10 năm 2001-2010 là: Ðưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nguồn lực con người, năng lực khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng, an ninh được tăng cường; thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành về cơ bản; vị thế của nước ta trên trường quốc tế được nâng cao.

Ðại hội đã bầu BCHTW gồm 150 đồng chí. Ðồng chí Nông Ðức Mạnh được bầu làm Tổng Bí thư của Ðảng.

Đại hội lần thứ X của Đảng - Phát huy sức mạnh toàn dân tộc, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển

Lịch sử các kỳ Đại hội Đảng toàn quốc

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng diễn ra từ ngày 18 đến 25/4/2006 tại Hà Nội. Ảnh: Báo Nhân Dân.

Thời gian: 18/04 đến 25/04/2006. Địa điểm: Thủ đô Hà Nội.

Đại hội kiểm điểm, đánh giá khách quan, toàn diện thành tựu và những yếu kém, khuyết điểm, đồng thời rút ra được những bài học kinh nghiệm qua việc thực hiện Nghị quyết Đại hội IX của Đảng, nhìn lại 20 năm đổi mới, từ đó tiếp tục phát triển và hoàn thiện đường lối, quan điểm, định ra phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ phát triển đất nước 5 năm (2006-2010); phương hướng, nhiệm vụ xây dựng Đảng; bổ sung, sửa đổi một số điểm trong Điều lệ Đảng.

Báo cáo Chính trị được Đại hội thông qua với tiêu đề: “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển”.

Đại hội khẳng định: Hai mươi năm qua, với sự nỗ lực phấn đấu của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, công cuộc đổi mới ở nước ta đã đạt những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế-xã hội, có sự thay đổi cơ bản và toàn diện. Kinh tế tăng trưởng khá nhanh; sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đang đẩy mạnh. Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường. Chính trị-xã hội ổn định. Quốc phòng và an ninh được giữ vững. Vị thế nước ta trên trường quốc tế không ngừng nâng cao. Sức mạnh tổng hợp của quốc gia đã tăng lên rất nhiều, tạo ra thế và lực mới cho đất nước tiếp tục đi lên với triển vọng tốt đẹp.

Nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ngày càng sáng tỏ hơn; hệ thống quan điểm lý luận về công cuộc đổi mới, về xã hội xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã hình thành trên những nét cơ bản.

Đại hội thông qua mục tiêu và phương hướng phát triển đất nước 5 năm 2006-2010 là: Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, huy động và sử dụng tốt mọi nguồn lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; phát triển văn hóa; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; tăng cường quốc phòng và an ninh, mở rộng quan hệ đối ngoại; chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế; giữ vững ổn định chính trị-xã hội; sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển; tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.

Đại hội bầu BCH Trung ương gồm 160 đồng chí Ủy viên chính thức và 21 đồng chí Ủy viên dự khuyết. Đồng chí Nông Đức Mạnh tiếp tục được bầu làm Tổng Bí thư của Đảng.

Đại hội lần thứ XI của Đảng - Đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới đất nước

Lịch sử các kỳ Đại hội Đảng toàn quốc

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng diễn ra từ ngày 12 đến ngày 19/1/2011. Ảnh: Báo Nhân Dân.

Thời gian: 12/01 đến 19/01/2011. Địa điểm: Trung tâm Hội nghị Quốc gia, Thủ đô Hà Nội.

Đại hội đánh giá, đồng thời rút ra những bài học kinh nghiệm qua việc thực hiện Nghị quyết Đại hội X của Đảng, thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội 5 năm (2006-2010), tổng kết Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 10 năm (2001-2010) và 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trên cơ sở đó, Đại hội quyết định việc bổ sung, phát triển Cương lĩnh năm 1991; xác định Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 10 năm (2011-2020); đề ra phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ 5 năm (2011-2015); thông qua Điều lệ Đảng (bổ sung, sửa đổi) và nhiều văn kiện quan trọng khác.

Về thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ của Đại hội X, Đại hội đánh giá: toàn Đảng, toàn dân đã nỗ lực phấn đấu đạt những thành tựu quan trọng. Ứng phó có kết quả với những diễn biến phức tạp của kinh tế thế giới và trong nước. Cơ bản giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô. Duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế khá, các ngành đều có bước phát triển, quy mô nền kinh tế tăng lên; đời sống của nhân dân tiếp tục được cải thiện; chính trị-xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được tăng cường; độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững; hoạt động đối ngoại, hội nhập quốc tế được mở rộng, vị thế, uy tín quốc tế của nước ta được nâng cao; phát huy dân chủ có tiến bộ, khối đại đoàn kết toàn dân tộc tiếp tục được củng cố; công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị đạt một số kết quả tích cực.

Mục tiêu tổng quát 5 năm (2011-2015) được Đại hội xác định là: Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới; xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; phát huy dân chủ và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; phát triển kinh tế nhanh, bền vững; nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân; giữ vững ổn định chính trị-xã hội; tăng cường hoạt động đối ngoại; bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) do Đại hội thông qua, khẳng định: Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử.

Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới.

Đại hội bầu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI gồm 175 đồng chí Ủy viên chính thức và 25 đồng chí Ủy viên dự khuyết. Tại Hội nghị lần thứ nhất, Ban Chấp hành Trung ương khóa XI bầu Bộ Chính trị gồm 14 đồng chí; Ban Bí thư gồm bốn đồng chí. Đồng chí Nguyễn Phú Trọng được bầu làm Tổng Bí thư của Đảng.

Tại Hội nghị Trung ương 7, khóa XI, họp từ ngày 2 đến 11/5/2013, hai đồng chí được bầu bổ sung vào Bộ Chính trị; một đồng chí được bầu bổ sung vào Ban Bí thư.

Đại hội lần thứ XII của Đảng - Tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh

Lịch sử các kỳ Đại hội Đảng toàn quốc

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng diễn ra từ ngày 20 đến 28/1/2016 tại Hà Nội. Ảnh: Báo Nhân Dân.

Thời gian: 20/01 đến 28/01/2016. Địa điểm: Trung tâm Hội nghị Quốc gia, Thủ đô Hà Nội.

Với chủ đề “Tăng cường xây dựng Ðảng trong sạch, vững mạnh; phát huy sức mạnh toàn dân tộc và dân chủ xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”, Ðại hội thảo luận, thống nhất đánh giá tổng quát kết quả thực hiện Nghị quyết Ðại hội XI, nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2011-2015 và nhìn lại 30 năm đổi mới.

Ðại hội thống nhất nhận định, trong nhiệm kỳ 2016-2020, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện có kết quả các nhiệm vụ trọng tâm sau:

- Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Ðảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực, phẩm chất và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ.

- Xây dựng tổ chức bộ máy của toàn hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu.

- Tập trung thực hiện các giải pháp nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Tiếp tục thực hiện có hiệu quả ba đột phá chiến lược (hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo, phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao; xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ), cơ cấu lại tổng thể và đồng bộ nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, chú trọng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới. Chú trọng giải quyết tốt vấn đề cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước, cơ cấu lại ngân sách nhà nước, xử lý nợ xấu và bảo đảm an toàn nợ công.

- Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước; bảo đảm an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội. Mở rộng và đưa vào chiều sâu các quan hệ đối ngoại; tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức, thực hiện hiệu quả hội nhập quốc tế trong điều kiện mới, tiếp tục nâng cao vị thế và uy tín của đất nước trên trường quốc tế.

- Thu hút, phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực và sức sáng tạo của nhân dân. Chăm lo nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, giải quyết tốt những vấn đề bức thiết; tăng cường quản lý phát triển xã hội, bảo đảm an ninh xã hội, an ninh con người; bảo đảm an sinh xã hội, nâng cao phúc lợi xã hội và giảm nghèo bền vững. Phát huy quyền làm chủ của nhân dân, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc.

Ðại hội bầu Ban Chấp hành Trung ương Ðảng khóa XII gồm 180 đồng chí Ủy viên chính thức và 20 đồng chí Ủy viên dự khuyết. Tại Hội nghị lần thứ nhất, Ban Chấp hành Trung ương bầu Bộ Chính trị gồm 19 đồng chí; Ban Bí thư gồm 3 đồng chí. Ðồng chí Nguyễn Phú Trọng được bầu tiếp tục làm Tổng Bí thư của Ðảng.

Tại Hội nghị Trung ương 6 khóa XII, họp từ ngày 4 đến 11/10/2017, hai đồng chí được bầu bổ sung vào Ban Bí thư. Tại Hội nghị Trung ương 7 khóa XII, họp từ ngày 7 đến 12/5/2018, hai đồng chí được bầu bổ sung vào Ban Bí thư.

PV (tổng hợp từ daihoidang.vn)


PV (tổng hợp từ daihoidang.vn)

 {name} - {time}

 Trả lời

{body}
 {name} - {time}
{body}

0 bình luận

Ý kiến của bạn sẽ được biên tập trước khi đăng. Vui lòng gõ tiếng Việt có dấu

Địa phương

Xem thêm TP.Thanh Hóa

Thời tiết

Chia sẻ thông tin với bạn bè!
Tắt [X]