“Ngọn cờ” bản Thái
Chưa một lần kinh qua “chức” trưởng bản hay bí thư chi bộ, song công việc lớn nhỏ thì hầu như mọi người đều hỏi ý kiến ông. Ở rẻo cao này, ông là một trong số ít người từng làm viên chức Nhà nước, luôn tiếp cận cái mới để đi đầu cho đồng bào làm theo, góp phần đẩy lùi cái đói cái nghèo và sự lạc hậu.
Thức ăn cho nai tại gia đình ông Hà Văn Xuân là cỏ cây trong vườn, không mất tiền mua.
Du nhập cây trồng, vật nuôi mới
Qua cầu Hồi Xuân sang bên kia sông Mã, tuyến Quốc lộ 15C uốn lượn mềm mại dọc các triền núi dẫn về bản Bút, xã Nam Xuân. Thuộc vùng cao còn nhiều khó khăn cả về giao thông lẫn điều kiện phát triển, song bản Bút đã trở thành điển hình của khu vực miền núi Thanh Hóa trong XDNTM. Ở đó, mô hình kinh tế tổng hợp của ông Hà Văn Xuân trở thành mẫu hình phát triển kinh tế vùng cao với cách làm độc đáo.
Khi chúng tôi tìm đến, ông rủ cùng lên núi đi tìm bầy công bởi đàn chim hôm nay đi ăn từ sáng sớm mà chưa chịu về. Dọc theo con suối nhỏ đến lưng chừng núi, ông nhiều lần cất giọng gọi bằng tiếng Thái, rồi ông phát hiện những tiếng kêu vọng lại như đáp lời. Khi đi sau đàn chim sắc màu sặc sỡ trở về nhà, ông kể: “Giống vật nuôi mới này được tôi tìm hiểu trên mạng rồi ra tận huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định cũ mua về để nhân giống vào năm 2024. Mình phải mua ở trại giống có địa chỉ cụ thể, vừa bảo đảm uy tín, lại có giấy tờ thủ tục đầy đủ. Nuôi từ lúc còn bằng nắm tay, đến nay 8 con công đã trưởng thành, chuẩn bị đến tuổi sinh sản, rất phù hợp với khí hậu và điều kiện núi rừng nơi đây. Nếu phát triển đàn thành công, đây sẽ là đối tượng con nuôi tiềm năng cho đồng bào địa phương với điều kiện nuôi thả bán hoang dã như bản Bút”.
Vừa trở về, ông Xuân lại phải vội đi pha sữa cho mấy chú hươu non đang khát cứ chạy theo, liên tục hích mũi vào chân ông mà đòi hỏi. “Mọi vật nuôi trong vườn đều thân thương, được tôi “nuông chiều” như con. Các loài vốn hoang dã khi mới du nhập đều nhút nhát, nhưng mình dần tiếp cận, khi cho ăn phải vuốt ve nó, dần đều trở thành quen rồi thân thiết”. Nói rồi, ông bế trên tay từng chú hươu con, đến xoa đầu những con nai trưởng thành. Ở nhiều trang trại hay mô hình chúng tôi từng đến, những con hươu, nai đều chạy mất dạng khi thấy bóng người, kể cả người chủ thường xuyên tiếp xúc. Ấy thế mà, khi nghe tiếng ông Xuân gọi, các loài động vật có nguồn gốc hoang dã vốn nhút nhát đã tiến lại gần quấn quýt đầy thân thiết.
Từ năm 2021, ông đã vào tận huyện Hương Sơn cũ, thuộc tỉnh Hà Tĩnh để học tập nuôi hươu và nai, sau đó mua 8 con giống về để nhân đàn. Ông dùng hẳn một căn nhà sàn cũ mang đặt xuống khu vườn làm nhà cho đàn vật nuôi mới ở, rồi quây lưới B40 quanh vườn nhà để chúng chạy nhảy, kiếm ăn theo hình thức bán hoang dã. Ngay năm đầu, ông đã thu hoạch được 6 nhung hươu với tổng trọng lượng gần 2kg, giá bán 2,8 triệu đồng mỗi lạng. Là động vật nguồn gốc hoang dã, lại được đưa về nuôi ở vùng núi rừng phù hợp nên từ khi trưởng thành, mỗi năm ông có thêm 3 hươu con, 2 nai giống ra đời. Khi chúng tôi đến, 3 nai mẹ đang mang bầu, dự kiến sẽ sinh sau ít ngày nữa. Trong ô chuồng riêng, một hươu con cũng đang được tách đàn để chăm sóc đặc biệt. Theo ông, chỉ cần nuôi 7 - 8 tháng, hươu con bán giống giá trị khoảng 30 triệu đồng/con, nai thì giá cao hơn, khoảng 50 đến 60 triệu đồng.
Chính ông Hà Văn Xuân là người khơi nguồn cho phong trào phát triển du lịch cộng đồng để khai thác vẻ đẹp hoang sơ của địa phương từ năm 2018. Ông đã định hướng cho một số gia đình xây dựng các homestay, tìm hiểu kiến thức và triển khai trên cơ sở hỗ trợ của huyện Quan Hóa cũ và các ngành liên quan. Trong bản vẫn lưu truyền câu chuyện từ nhiều năm trước, một số gia đình có ý định phá nhà sàn cũ để xây nhà gạch kiên cố. Ông cùng người con quê hương thành đạt khác là ông Hà Văn Thương đã phải khuyên ngăn, nhờ đó mà bản Bút lưu giữ được tất cả với hơn 100 nóc nhà sàn để phát triển du lịch như ngày nay. |
Luôn học tập những kiến thức mới cùng đúc rút kinh nghiệm, ông đã bỏ lòng bàn tay những bí quyết nuôi hươu, nai. “Nếu nuôi từ bé, phải 12 tháng thì hươu, nai mới lên lộc, còn phải 17 tháng mới động dục. Lộc nhung tốt nhất là được 55 ngày tính từ lúc mọc là phải cắt, nếu để quá 60 ngày sẽ cứng lại, không còn đủ chất dinh dưỡng”, ông Xuân chia sẻ.
Dẫn khách thăm khu sản xuất, ông còn giới thiệu bầy don được nuôi dưới vườn cây mắc ca. Mỗi lần quả mắc ca rụng, loài gặm nhấm này lại tranh nhau ngấu nghiến nên hầu như không phải bổ sung thức ăn ngoài. Rồi trong khu chuồng được phân từng ô bằng gạch, hàng chục cặp nhím và dúi vẫn lớn lên, sinh sản nhờ tre luồng ngoài bìa rừng làm thức ăn. Ở những khoảng đất trống, ông còn trồng thử cây kiwi nguồn gốc từ New Zealand, rồi những cây ăn quả ở nhiều nơi được du nhập như một khu thử nghiệm giống cây mới cho đồng bào.
Khắp khu sản xuất trên triền đồi không bằng phẳng, song đều mang dấu ấn bàn tay cải tạo của con người. Ấn tượng nhất là 3 ao cá tổng diện tích 1.500m2 được ông bài trí kiểu ruộng bậc thang, dẫn nước suối về với thiết kế tràn từ ao trên xuống ao dưới quanh năm róc rách, rồi đổ ra khu ruộng lúa nước của bản làng. Chính vì tạo được dòng nước động giống tự nhiên, mà từ nhiều năm qua, ông đã thành công trong nuôi cá dầm xanh - một loại đặc sản của núi rừng Tây Bắc. Hàng trăm cá thể ba ba sinh sản được thả trong các ao cá gần như tự nhiên, vẫn sinh sôi con nhỏ tự lúc nào rồi lớn lên, cũng đem về nguồn thu hàng trăm triệu đồng mỗi năm cho gia chủ.
Cả bản làm theo
Nằm trên độ cao từ 1.200 đến 1.250m so với mực nước biển, bản Bút được thiên nhiên ưu ái với khí hậu mát mẻ, mây mù bao phủ quanh năm. Đất đai nơi đây phì nhiêu màu mỡ, luôn ẩm ướt nên cây cối tốt tươi, vật nuôi phát triển. Vấn đề còn lại là đồng bào có đủ cần cù và sự năng động để phát triển kinh tế, hay còn tư tưởng lệ thuộc, thiếu năng động? Thực trạng ở nhiều bản làng miền núi ấy đã được ông Hà Văn Xuân góp phần thay đổi bằng cách luôn đi đầu và truyền cảm hứng.
Loại cỏ voi thân mềm nguồn gốc từ Trung Mỹ được ông Hà Văn Xuân du nhập cho bà con bản Bút trồng phát triển chăn nuôi.
Mới toàn tâm với mô hình kinh tế tổng hợp sau khi được nghỉ hưu chưa lâu, song gần 40 năm trước, khi còn là thanh niên trai tráng, ông Xuân đã là người đầu tiên chặt bỏ lau lách, khai hoang đất đồi. “Năm 1978, bố mẹ tôi đã tách ra khu ở mới đầu bản, nhưng xung quanh nhà sàn đều rậm rạp, đầy rắn rết côn trùng. Người dân địa phương vẫn chủ yếu lệ thuộc vào rừng, đất đai màu mỡ nhưng hầu hết để hoang hóa, mặt khác thì địa hình không bằng phẳng, khó sản xuất. Thấy tiềm năng lớn, đến năm 1987, tôi cùng người vợ trẻ bắt đầu từng bước lấy sức người cải tạo thiên nhiên. Còn nhớ, tôi phải đắp bờ kè từng đoạn, rồi ngày ngày chặt cây cộng sản, cỏ dại lót xuống dưới thành mùn, dần dà đắp đất mà thành những ruộng bậc thang. Hết ngày nọ sang tháng kia, thế là hình thành cả khu canh tác lúa nước, rồi cung cấp đủ lương thực cho gia đình. Sau này bà con thấy gia đình tôi thừa gạo ăn quanh năm, cũng làm theo, được tôi hướng dẫn cải tạo mà thành cả khu ruộng bậc thang lúa nước của bản như hôm nay”, ông Xuân nhớ lại.
Khi chủ động được lương thực, ông từng bước đào các ao thả cá. Cỏ dại mọc đầy trong vườn thành thức ăn “0 đồng” cho đàn cá trắm, cá dốc. Rồi ông bắt đầu phát triển các đàn ngỗng, vịt sinh sản, những đàn gà làm tiền đề để hàng xóm xung quanh làm theo. Quá trình kiến thiết, xây dựng khu sản xuất, ông hướng dẫn những người trong bản kỹ thuật xây, đắp đất, be bờ, rồi đến nay, họ đã thành thợ xây của bản, đi làm dịch vụ xây dựng các công trình phụ, khu sản xuất trong vùng.
Người dân bản Bút còn biết ơn ông bởi vào năm 1990, người đàn ông sinh năm 1964 đã dành dụm tiền lương hàng tháng của mình để kè ngang con suối trong bản thành đập tràn mi ni, từ đó tích được dòng nước ngọt lành. Mọi nhà dùng ống dẫn về làm nguồn sinh hoạt, rồi các khu trồng khoai sọ, các ruộng lúa nương từ đó mà chủ động được quy trình sản xuất xanh tốt quanh năm.
Với ông, mình là số ít những người thành công, được học hành của bản nên phải có trách nhiệm với đồng bào, giúp đồng bào cùng khá lên. Tinh thần ấy còn được hun đúc thêm khi ông học chuyên nghiệp và quá trình đi làm, được tiếp cận và học tập gương Bác Hồ vĩ đại. Được biết, cậu bé Hà Văn Xuân là người hiếm hoi của bản Bút thời ấy được đi học hết cấp 3 và học rất giỏi. Năm 1984, ông đậu và theo học trung cấp y tại thị xã Thanh Hóa rồi về huyện Quan Hóa cũ công tác. Giai đoạn 1994-1998, ông đi học chuyên tu bác sĩ tại Đại học Y Thái Nguyên, rồi về làm bác sĩ phòng dịch ở Trung tâm Y tế dự phòng huyện Quan Hóa đến năm 2000. Tiếp đó, ông được chuyển sang công tác ở cơ quan Bảo hiểm Y tế huyện, sau khi sáp nhập cùng mảng bảo hiểm xã hội, ông được điều động rồi sau làm lãnh đạo ở cơ quan Bảo hiểm Xã hội huyện Quan Hóa cũ những năm trước nghỉ hưu.
Hơn nửa đời người công tác tại thị trấn Hồi Xuân cũ, ông vẫn trung thành với chiếc xe máy đi về hơn chục cây số đường rừng mỗi ngày. Đổi lại sự vất vả ấy, ông được quán xuyến khu sản xuất, xắn tay lao động mỗi khi rảnh rỗi. Từng bờ ao, từng mét kè vườn tạo đường đồng mức đều qua tay ông tự mày mò thi triển. Những cây trồng, vật nuôi mới sau khi được ông du nhập và thử nghiệm thành công, được chuyển giao để nhiều hộ khác bắt đầu triển khai, phát triển kinh tế hiệu quả.
Hiện thấy rõ nhất là rất nhiều hộ dân trong bản đang phát triển loại cỏ voi có nguồn gốc từ đất nước Goatemala thuộc châu Mỹ xa xôi. Dẫn chúng tôi đi dọc các con đường trong bản, ông Xuân chỉ tay giới thiệu những hàng cỏ ngang đầu người xanh mướt. “Đây là loài cỏ voi nhưng thân và lá rất mềm, xanh mướt quanh năm, cứ cắt lại lên. Không chỉ hươu nai, trâu bò mà gà, ngan, ngỗng, rồi cá dưới ao đều ăn được, lại rất năng suất. Khi nghe nói, tôi phải vào tận thị xã Thái Hòa cũ của tỉnh Nghệ An tìm hiểu và du nhập về. Đất đai ở bản tốt, chỉ cần vãi hạt như vãi mạ ven đường, tận dụng mọi không gian để trồng là bà con có nguồn thức ăn phát triển chăn nuôi không mất tiền mua”, ông Xuân giới thiệu.
Theo trưởng bản Bút, Hà Công Chức, đồng bào Thái trong bản ngày càng khá giả với các mô hình kinh tế đang phát triển, mà điển hình và luôn đi đầu là ông Hà Văn Xuân - người gần như tạo mọi cảm hứng cho bà con làm theo. Năm 2019, bản được công nhận đạt chuẩn NTM với điều kiện hạ tầng khang trang, đời sống người dân ngày càng phát triển.
Bài và ảnh: Lê Đồng
Bình luận
Xin vui lòng gõ tiếng Việt có dấu