Tỏa sáng phẩm chất, trí tuệ và khát vọng dân tộc (Bài 3): Quốc hội Việt Nam và yêu cầu đột phá thể chế, pháp luật
Một trong những yêu cầu cấp bách hiện nay đặt ra đối với Quốc hội Việt Nam đó là xây dựng pháp luật bám sát thực tiễn, đứng chân trên mảnh đất thực tiễn của Việt Nam, đồng thời kết hợp tinh hoa của nhân loại, thể chế, pháp luật trở thành lợi thế cạnh tranh, nền tảng vững chắc, động lực cho phát triển.

Hoạt động Đoàn ĐBQH tỉnh Thanh Hóa tại Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV. Ảnh: Hữu Đại
Góp ý vào Dự thảo báo cáo công tác nhiệm kỳ khóa XV của Quốc hội, nhiều ĐBQH khẳng định: Đây là một nhiệm kỳ diễn ra trong bối cảnh có nhiều biến động như đại dịch COVID-19, kinh tế thế giới suy giảm, yêu cầu phục hồi kinh tế nhanh, cải cách thể chế mạnh mẽ, sắp xếp tổ chức bộ máy và đẩy mạnh chuyển đổi số. Quốc hội khóa XV đã hoàn thành tất cả khối lượng công việc ấy với sự nỗ lực, trách nhiệm, trí tuệ của các đại biểu.
Trong nhiệm kỳ khóa XV, Quốc hội đã tổ chức 19 kỳ họp, trong đó có 9 kỳ họp bất thường, 10 kỳ họp thường lệ; hoàn thành hơn 205 nhiệm vụ lập pháp, vượt 33% so với định hướng ban đầu. Nổi bật trong thành tựu lập pháp của nhiệm kỳ qua đó là đã đổi mới tư duy tháo gỡ điểm nghẽn pháp luật. Các cơ quan Quốc hội đã tích cực rà soát, gỡ bỏ quy định không còn phù hợp, bảo đảm pháp luật không chỉ là công cụ quản lý mà còn là động lực thúc đẩy phát triển.
Đại biểu Dương Khắc Mai, Đoàn ĐBQH tỉnh Lâm Đồng thông tin thêm về dấu ấn nhiệm kỳ qua là sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013, tạo nền tảng hiến định cho nhiều cải cách lớn. Hoạt động lập pháp có khối lượng lớn góp phần tháo gỡ kịp thời điểm nghẽn thể chế. Đổi mới hoạt động giám sát tối cao, nâng cao hiệu lực và hiệu quả. Quyết định nhiều chính sách quan trọng về kinh tế - xã hội, ngân sách, đầu tư công, phục hồi và phát triển sau đại dịch. Tổ chức kỳ họp linh hoạt, ứng dụng mạnh mẽ chuyển đổi số, mở rộng hoạt động đối ngoại nâng cao vị thế Việt Nam trên trường quốc tế.
Xét đến cùng, tính minh bạch, công khai, dân chủ của Nhà nước đều dựa trên năng lực và chất lượng nhà nước pháp quyền. Ở nước ta, theo Nghị quyết số 27-NQ/TW về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới nêu 8 đặc trưng của Nhà nước pháp quyền ở nước ta. Trong đó có đặc trưng: Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật. Hệ thống pháp luật dân chủ, công bằng, nhân đạo, đầy đủ, đồng bộ, thống nhất, kịp thời, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, dễ tiếp cận, được thực hiện nghiêm minh và nhất quán. Theo đó, mục tiêu cụ thể đến năm 2030, tiếp tục đổi mới tổ chức và nâng cao chất lượng hoạt động của Quốc hội; bảo đảm Quốc hội thực sự là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, nâng cao hiệu quả thực hiện chức năng, nhiệm vụ theo quy định của hiến pháp.
Là cơ quan thực hiện quyền lập hiến và lập pháp trong kỷ nguyên mới, vai trò đó của Quốc hội Việt Nam không chỉ dừng lại ở việc làm luật mà còn phải đóng vai trò kiến tạo thể chế, tạo lập hành lang pháp lý, khơi thông động lực phát triển. Người đứng đầu Đảng ta - Tổng Bí thư Tô Lâm đặc biệt đề cao vai trò của thể chế, coi hoàn thiện thể chế là một trong 3 trụ cột chiến lược cùng với phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao và hạ tầng hiện đại.
Trong bài viết với tiêu đề “Đột phá thể chế, pháp luật để đất nước vươn mình”, Tổng Bí thư Tô Lâm nêu rõ: Thể chế, pháp luật có chất lượng, phù hợp với yêu cầu phát triển của thực tiễn và nguyện vọng của Nhân dân là yếu tố hàng đầu quyết định thành công của mỗi quốc gia. Do đó, để đất nước vươn mình phát triển mạnh mẽ, chúng ta dứt khoát nói “không” với bất cứ hạn chế, bất cập nào trong thể chế, pháp luật; không thỏa hiệp với bất kỳ yếu kém nào trong thiết kế chính sách, soạn thảo pháp luật, hay tổ chức thực thi.
Rõ ràng những điểm nghẽn - cục máu đông trong lập pháp hiện nay cần tiếp tục nhận diện và tháo gỡ như: những quy định chồng chéo, mâu thuẫn, chưa rõ ràng, cản trở việc thực thi, không thuận lợi cho việc đổi mới sáng tạo, thu hút và khơi thông nguồn lực đầu tư. Việc phân cấp, phân quyền chưa đủ mạnh, thủ tục hành chính còn nhiều khúc quanh. Chậm nghiên cứu, ban hành chính sách, pháp luật điều chỉnh những vấn đề mới, chưa tạo được khuôn khổ pháp lý thuận lợi thúc đẩy các động lực tăng trưởng mới.
Là người có nhiều năm kinh nghiệm tại nghị trường, theo Tiến sĩ Nguyễn Sĩ Dũng, nguyên Phó Chủ nhiệm văn phòng Quốc hội, chức năng lập pháp của Quốc hội chính là thẩm định và thông qua các dự án luật. Linh hồn của chức năng lập pháp của Quốc hội chính là thẩm định.
Câu hỏi đặt ra là cần một quy trình thế nào để Quốc hội thẩm định sự cần thiết của Luật. Là người có nhiều kinh nghiệm hoạt động tại nghị trường, ông Nguyễn Sĩ Dũng cho rằng cần phải trả lời 3 câu hỏi: Cuộc sống có vấn đề gì hay không? Đó có phải là vấn đề hệ trọng nhất hay không? Có cách gì khác để xử lý vấn đề hiệu quả hơn là ban hành pháp luật hay không?
Bước đầu gợi mở những giải pháp để hoạt động lập pháp không xa rời với cuộc sống, Tiến sĩ Nguyễn Sĩ Dũng cho rằng: Phải tránh thiết kế những chính sách theo mong muốn chủ quan, những dự luật “nhồi nhét”, những đạo luật “nhồi nhét”. Trong khoa học pháp lý, phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng không chỉ thể hiện giới hạn điều chỉnh của một đạo luật mà còn phản ánh sự phát triển của hoạt động lập pháp quốc gia. Thực tế trong hệ thống luật pháp ở nước ta nhiều năm qua, nhiều Luật đã đạt đến sự phát triển trong hoạt động lập pháp, với nhiều tư tưởng tiến bộ, đảm bảo tối đa quyền cơ bản của con người. Ví dụ như Luật Bảo hiểm xã hội.
Là người theo đuổi và có thể được xem là linh hồn kiến tạo nhiều chính sách an sinh xã hội, Tiến sĩ Bùi Sĩ Lợi, nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Các vấn đề xã hội của Quốc hội chia sẻ khi phát biểu tại Kỳ họp thứ 8 Quốc hội khóa XIII (từ ngày 31/10 đến ngày 28/11/2014) đóng góp vào dự Luật Bảo hiểm xã hội sửa đổi. Ông cho rằng phải mở rộng đối tượng, lực lượng lao động tham gia bảo hiểm xã hội, tuân thủ nguyên tắc đóng - hưởng bảo đảm cân bằng quỹ. Cụ thể ở nội dung mở rộng đối tượng, chính ông đã nêu nội dung cần phải bổ sung nhóm đối tượng người lao động làm việc theo mùa vụ từ 1 đến dưới 3 tháng khi ấy tầm hơn 9 triệu người; tiếp đó là lực lượng hoạt động bán chuyên trách, lao động khu vực nông nghiệp, lao động khu vực phi chính thức. Và thực tế cho đến nay nhiều ý kiến của ông cho lộ trình giảm xóc, giảm bớt sự bao cấp của Nhà nước, đảm bảo cân bằng quỹ vẫn còn nguyên giá trị. Luật Bảo hiểm xã hội 2024 có hiệu lực 1/7/2025 đã thể hiện được tinh thần ấy.
Đồng hành cùng với sự lớn mạnh của Quốc hội Việt Nam, Đoàn ĐBQH Thanh Hóa cũng đã để lại nhiều dấu ấn trong hoạt động lập pháp. Trong nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV (2021–2026), Đoàn ĐBQH tỉnh Thanh Hóa đã nêu cao tinh thần trách nhiệm, chủ động bám sát chương trình của Quốc hội, hoàn thành toàn diện các nhiệm vụ được giao, đóng góp thiết thực vào công tác lập pháp, giám sát và quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước. Trong công tác xây dựng pháp luật, đoàn đã tổ chức lấy ý kiến và tham gia góp ý 128 dự thảo luật, pháp lệnh, nghị quyết; kịp thời tổng hợp các ý kiến thực tiễn, cung cấp cơ sở quan trọng để các đại biểu tham gia thảo luận, quyết định tại nghị trường. Công tác giám sát, khảo sát tiếp tục được triển khai bài bản, hiệu quả với 17 chuyên đề giám sát, 5 cuộc khảo sát chuyên sâu và 14 lượt tham gia các đoàn giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và các Ủy ban của Quốc hội. Tại các phiên thảo luận, chất vấn, các đại biểu trong đoàn đã có 21 lượt chất vấn và hơn 370 lượt phát biểu, phản ánh đầy đủ những vấn đề cử tri và Nhân dân quan tâm.
Ông Mai Văn Hải, Phó Trưởng Đoàn ĐBQH tỉnh Thanh Hóa nhấn mạnh: Đoàn ĐBQH Thanh Hóa là cầu nối giữa Nhân dân trong tỉnh với Quốc hội. Các đại biểu trong Đoàn ĐBQH Thanh Hóa luôn chủ động, tích cực tham gia có chất lượng ý kiến vào các dự thảo luật, nghị quyết của Quốc hội, góp phần hoàn thiện, xây dựng hệ thống pháp luật phục vụ cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Ghi nhận những thành tích trong hoạt động của Đoàn ĐBQH Thanh Hóa, đồng chí Nguyễn Hồng Phong, Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy Thanh Hóa khẳng định: Trong quá trình hoạt động của mình, các ĐBQH đã thể hiện tinh thần trách nhiệm cao, giữ mối liên hệ chặt chẽ với các cử tri, phản ánh đến nghị trường những vấn đề bức xúc trong xã hội, cũng như đề xuất các giải pháp trong lĩnh vực phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh - quốc phòng và đối ngoại. Sự tham gia góp ý và các nội dung đóng góp của các ĐBQH thuộc Đoàn ĐBQH tỉnh Thanh Hóa đã giúp cho Quốc hội có thêm những thông tin xác đáng góp phần xây dựng pháp luật cũng như thực hiện các quyết sách trọng đại của đất nước.
Có thể thấy, một trong những bài học sâu sắc và xuyên suốt trong hoạt động lập hiến, lập pháp của Quốc hội Việt Nam trong 80 năm qua là yêu cầu gắn kết chặt chẽ giữa pháp luật với thực tiễn đời sống xã hội. Pháp luật không thể là những quy phạm xa rời cuộc sống mà phải bắt nguồn từ thực tiễn, phản ánh trung thực những vấn đề đặt ra trong đời sống kinh tế - xã hội của đất nước, đồng thời hướng tới giải quyết hiệu quả các vấn đề đó.
Nghị quyết số 66-NQ/TW của Bộ Chính trị về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật khẳng định: Công tác xây dựng và thi hành pháp luật là “đột phá của đột phá” trong hoàn thiện thể chế, là nhiệm vụ trọng tâm của tiến trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Muốn vậy quy trình lập pháp phải dân chủ hơn, khoa học hơn, mở rộng hơn khả năng tham gia, tranh luận, phản biện của từng đại biểu, từng ủy ban, từng đoàn, từng nhóm đối tượng chịu tác động.
Thể chế, pháp luật có chất lượng, phù hợp với yêu cầu phát triển của thực tiễn và nguyện vọng của Nhân dân là yếu tố hàng đầu quyết định thành công của mỗi quốc gia. Nhiệm kỳ Quốc hội khóa XVI sẽ là dấu mốc quan trọng trên chặng đường phát triển mới của đất nước, đặt ra yêu cầu lớn đối với công tác của Quốc hội, đặc biệt là nhiệm vụ hoàn thiện thể chế với yêu cầu “biến cải cách thể chế thành lợi thế cạnh tranh, thành động lực phát triển”.
Nguyễn Hường





Bình luận
Xin vui lòng gõ tiếng Việt có dấu