Gặp lại người chiến sĩ Điện Biên ở miền Tây xứ Thanh
Hơn bảy thập kỷ đã trôi qua kể từ ngày chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, nhưng trong ký ức của những người lính năm xưa mọi kỷ niệm vẫn như còn vẹn nguyên. Giữa núi rừng miền Tây xứ Thanh, trong căn nhà sàn nhỏ ấm áp ở khu 3, xã Hồi Xuân, ông Ngân Tiến Nhẫn - người chiến sĩ Điện Biên năm xưa kể lại những tháng năm “hoa lửa” của đời mình bằng giọng nói chậm rãi mà rắn rỏi. Mỗi lần nhắc đến hai tiếng Điện Biên, ánh mắt ông lại sáng lên rạng rỡ, tự hào và xúc động như thuở đôi mươi.

Ông Ngân Tiến Nhẫn giới thiệu về các huân, huy chương được Đảng, Nhà nước trao tặng.
Ông Ngân Tiến Nhẫn sinh năm 1930, tại bản Nhụng, xã Thiên Phủ, huyện Quan Hóa cũ. Là con trai của một gia đình nông dân người Mường, chàng trai trẻ sớm giác ngộ cách mạng. Tháng 9/1946, ông đăng ký học lớp “Bình dân học vụ” do xã tổ chức. “Bảy ngày học liên tục, không được về nhà, học hơn một năm thì tôi thi đậu”, ông kể với niềm vui của một người từng được khai sáng bằng con chữ.
Thực hiện “Lời kêu gọi thi đua ái quốc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh (11/6/1948), ông Nhẫn xung phong làm giáo viên dạy chữ cho đồng bào thượng du, góp phần diệt giặc dốt giữa núi rừng. Ông còn nhớ lời Bác Hồ dạy năm xưa: “Mỗi người dân Việt Nam, bất kỳ già, trẻ, trai, gái; bất kỳ giàu, nghèo, lớn, nhỏ, đều cần phải trở nên một chiến sĩ tranh đấu trên mặt trận: quân sự, kinh tế, chính trị, văn hóa”, ông Nhẫn xúc động nhắc lại.
Đầu năm 1951, ông tham gia đội du kích, rồi đội trật tự xã. Cùng đồng đội, ông nhiều lần chặn bắt gián điệp, bảo vệ an toàn cho các kho đạn, trạm tập kết lương thực của dân quân. Trong thời gian tham gia đội du kích, trật tự, ông cùng đồng đội nhiều lần đánh đuổi và bắt được 2 tên địch trên dốc Mướp, xã Hồi Xuân và làng Đuốm, xã Phú Lệ. Khi ấy, bọn chỉ điểm của thực dân Pháp len lỏi khắp nơi ở vùng thượng du Thanh Hóa. Chúng tinh ranh đến mức chỉ cần phát hiện vị trí của ta là lập tức treo một chiếc gương nhỏ hay mảnh vải đỏ, vải trắng lên ngọn tre để máy bay địch dễ nhận ra và ném bom. Ký ức ám ảnh nhất trong đời ông là buổi chiều 2/4/1953, khi máy bay Pháp trút bom xuống khu vực hang Co Phương, bản Sại, xã Phú Lệ, cửa hang sập, 11 dân công hỏa tuyến bị vùi lấp mãi mãi. Mắt ông ngấn lệ: “Khi đó tôi ở suối Pưng, nghe tiếng bom liền chạy tắt lên đồi cùng dân bản đào bới suốt đêm mà không cứu được ai... Cảnh tượng ấy không bao giờ tôi quên được”.
Tháng 2/1954, khi chiến dịch Điện Biên Phủ bước vào giai đoạn ác liệt, chàng trai dân tộc Mường 24 tuổi hăng hái lên đường nhập ngũ, trở thành chiến sĩ của Đại đội 188 - bộ đội địa phương, làm nhiệm vụ bảo vệ tuyến vận chuyển lương thực, vũ khí ra mặt trận. Những năm tháng gian lao nơi rừng sâu, sống giữa đói rét, sốt rét và bom đạn nhưng Ngân Tiến Nhẫn và đồng đội tinh thần không bao giờ lùi bước. “Có tháng chúng tôi chỉ ở rừng, khói bếp cũng không dám đun. Chỉ một vệt khói bay là máy bay địch phát hiện, nhiều đồng đội tôi đã ngã xuống”, ông kể.
Đại đội 188 đã góp phần giữ vững giao thông huyết mạch, đảm bảo cho chiến dịch thắng lợi. Khi những loạt pháo đầu tiên vang lên trong trận đánh quyết định ở đồi Him Lam, đơn vị của ông chỉ cách đó hơn 30km. Và ông nghe rõ âm vang bản hùng ca mở đầu cho chiến thắng “chấn động địa cầu”.
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, ông tiếp tục quân ngũ. Năm 1958, được cử đi học lớp y tá quân y, rồi trở thành Trung sĩ, công tác tại Đại đội 5 - Công an vũ trang Thanh Hóa. Ba năm sau, ông được cử sang Sầm Nưa (Lào) phối hợp truy bắt tội phạm người Việt lẩn trốn. Biết tiếng Lào và được dân quý trọng, ông nhanh chóng hoàn thành nhiệm vụ, đưa nhiều đối tượng về nước.
Trở lại quê hương, ông được phân công làm y tá tại Đồn 99 - Công an vũ trang biên phòng Thanh Hóa. Trong bộ quân phục, ông không chỉ là người lính cầm súng, mà còn là thầy thuốc của rừng xanh. Ông tận dụng tri thức dân gian của người Mường, những bài thuốc nam bí truyền để cứu chữa đồng đội và dân bản. “Ngày ấy thuốc men khan hiếm, có gì trong rừng thì dùng nấy, chỉ mong cứu được người là mừng rồi”, ông kể với ánh mắt hiền hậu. Có lần, một nạn nhân bị rắn độc cắn tưởng như không qua khỏi, nhờ bàn tay chăm sóc và bài thuốc của ông, người ấy đã được cứu sống.
Năm 1965, hình ảnh người y tá biên phòng Ngân Tiến Nhẫn tận tụy chăm sóc dân bản được đăng trên một tờ báo Trung ương, minh họa cho tình quân dân nơi miền núi. Cũng trong năm ấy, ông vinh dự được Chủ tịch Hồ Chí Minh tặng Huy hiệu Hồ Chí Minh - phần thưởng cao quý mà đến nay ông vẫn trân trọng gìn giữ như báu vật.
Hơn 20 năm trong quân ngũ, ông Nhẫn đã nhận nhiều phần thưởng cao quý: Huy chương Chiến thắng hạng Nhì; Huân chương Chiến sĩ vẻ vang hạng Nhất, Nhì, Ba; Huân chương Kháng chiến hạng Nhất; Huy hiệu 65 năm tuổi Đảng. Thế nhưng, điều ông tự hào nhất không phải là huân chương, mà là tình đồng đội, là niềm tin yêu của con cháu quê nhà.
Rời quân ngũ, ông trở về với cuộc sống đời thường bằng đôi bàn tay và nghị lực của người lính. Đầu những năm 80 của thế kỷ trước, ông cùng vợ con khai hoang, phục hóa ruộng bậc thang, trồng lúa, ngô, sắn, chăn nuôi để mưu sinh. Nhờ cần cù, ông đã biến vùng đất cằn cỗi bên sườn núi Hồi Xuân thành bờ xôi ruộng mật. Không chỉ chăm lo phát triển kinh tế, chăm lo cuộc sống gia đình, ông còn được tín nhiệm bầu làm bí thư chi bộ, rồi tham gia Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Quan Hóa (cũ) cho đến năm 1987.
Ông có bốn người con ruột và một người con nuôi, tất cả đều trưởng thành, người làm trong lực lượng vũ trang, người là cán bộ, người giáo viên. Con trai cả của ông, anh Ngân Hồng Quân xúc động nói: “Cha tôi là người chịu thương chịu khó, làm việc gì cũng hết lòng. Cả đời ông là tấm gương về nghị lực và trách nhiệm”.
Giờ đây, ở tuổi 95, ông Nhẫn vẫn minh mẫn. Ông vẫn tiếp đón học sinh, thanh niên đến nghe kể chuyện Điện Biên. “Chiến tranh đã lùi xa nhưng các con phải biết trân quý hòa bình. Thành quả hôm nay đổi bằng máu xương của biết bao người”, ông căn dặn.
Mái tóc người chiến sĩ Điện Biên nay đã bạc trắng, đôi mắt mờ đi nhưng ngọn lửa yêu nước trong ông vẫn cháy rực. Trong từng câu chuyện ông kể, người ta như thấy thấp thoáng bóng dáng của một thời, thời của những con người làm nên lịch sử bằng ý chí sắt đá và trái tim son sắt.
Bài và ảnh: Bá Phượng





Bình luận
Xin vui lòng gõ tiếng Việt có dấu