Cao Sơn mùa “gieo” chữ
Giữa bảng lảng sương mù, ngôi trường trên đỉnh Cao Sơn (với 3 thôn: Sơn, Bá, Mười, thuộc xã Cổ Lũng) đã rộn rã. Tiếng cười nói, nô đùa trong trẻo của các em học sinh như xua đi cái rả rích, ẩm ướt của tiết trời. Khoảng đầu tháng 9, mặc cho những cơn bão gió, tôi lại ngược Cao Sơn như một hẹn ước - mùa “gieo” chữ mới bắt đầu.
Thầy Trần Ngọc Hải vẫn say mê “giữ lửa” với nghề nơi vùng đất khó.
Hồi ức... gùi gạch, đá xây trường
Lên Cao Sơn thực chưa bao giờ là dễ dàng. Các thôn bản nơi đây nằm trên các dãy núi cao Pha Chiến, Pòng Mứu, Pòng Pa Có... chạy song song với dãy núi Pù Luông, tọa lạc ở độ cao gần 1.200m so với mực nước biển. Bà con chủ yếu là đồng bào dân tộc Thái. Nơi đây còn được ví như thiên đường nghỉ dưỡng với khí hậu mát mẻ vào mùa hè, ấm áp vào mùa đông, cảnh quan thiên nhiên như một bức tranh hữu tình. Lợi thế là vậy, nhưng trước khi có con đường từ trung tâm xã Cổ Lũng lên, vùng đất này chủ yếu đón du khách Hà Nội và các tỉnh, thành khác theo hướng từ tỉnh Hòa Bình (cũ) lên. Không chỉ du khách, mà học sinh trên đỉnh Cao Sơn cũng vậy, sự học đều phải “nhờ” trường lớp của tỉnh bạn.
Trong tâm thức thầy Trần Ngọc Hải, người cùng quê xã Biện Thượng với tôi, khoảng 20 năm trước, khi ấy đường lên Cao Sơn, lên điểm trường thầy nhận công tác chỉ là lối mòn đi rừng của bà con, rộng chưa đầy sải tay. Đường đi phải luồn rừng, leo núi, thậm chí phải đối mặt với muông thú. Bởi vậy, ai đi Cao Sơn thuở ấy, nhất định trên tay phải có cây gậy tầm vông để chống. Cây gậy vừa trợ lực khi leo, vừa giữ khỏi trơn trượt khi xuống dốc. Anh em đồng nghiệp cánh báo chí chúng tôi thì kháo vui: “Làm báo mà chưa lên Cao Sơn thì chưa phải phóng viên chiến trường”. Cao Sơn không chỉ có đường khó, mà còn như sự thử thách chạm đến “hạt ngọc xanh” chưa được mài giũa của núi rừng Pù Luông. Cao Sơn đẹp thật, nhưng nghèo! Với thầy Hải, cái khó lúc bấy giờ không chỉ ở con đường mà thôn, bản cũng chưa có điện, chưa có sóng mạng... Đặc biệt, khi ấy chưa có trường lớp như bây giờ. Chỉ là điểm trường tranh tre nứa lá với vài ba chục học sinh khối lớp 7, lớp 8. Số còn lại đều sang học nhờ bên tỉnh Hòa Bình cũ.
Trường Tiểu học và THCS Cao Sơn.
“Năm 2005 tôi lên, đến năm 2007 có chủ trương dựng trường, tôi cùng các thầy, cô và hàng trăm người dân bản làng vùng cao đã đồng lòng gùi đá, gánh cát, vôi vữa từ bên huyện Tân Lạc, tỉnh Hòa Bình (cũ) lên xây. Quãng đường vận chuyển vật liệu khi ấy tới 5km, bà con gánh cát từ dưới sông, suối; đàn ông thì gùi đá sau lưng. Cứ thế, những đoàn người lặng lẽ đi trong sương mù với một khát vọng: dựng lên cho con trẻ một mái trường khang trang, kiên cố. Mỗi hành trình mang vác gạch, đá, cát... phải mất tới 5 đến 6 tiếng đồng hồ. Áo ai cũng sũng mồ hôi, nhưng đều hồ hởi. Bởi niềm tin và câu chuyện rôm rả như xua bớt cái mệt mỏi hiện thời”, thầy Hải vẹn nguyên ký ức.
Cũng bởi quá trình xây dựng thủ công bằng chân tay ấy, phải mất nửa năm trời, những bức tường vững chãi của trường lớp mới được dựng lên giữa đại ngàn núi rừng, trong niềm vui vô bờ của các thầy và người dân. Ngôi trường ấy không chỉ làm bằng đá, mà còn xây bằng ý chí và tình người vì con chữ của bà con vùng cao. Ngôi trường trên đỉnh Cao Sơn, đến giờ vẫn được nhắc bằng một hồi ức đẹp về một thời gian khó.
Và tiếng trống trường đầu năm học với các thầy, với bà con bản làng nơi đây vang lên như báo hiệu một mùa “gieo” chữ mới, gợi về những ký ức nghĩa tình một thời gian khó.
"Gieo chữ" giữa mù sương
Lên Cao Sơn giờ vẫn những con dốc ngoằn ngoèo dựng đứng, sương mù bao phủ. Đường đã mở rộng, thảm nhựa phẳng lỳ. Ngôi trường ở Cao Sơn qua nhiều lần đại tu, nâng cấp, xây mới nay cũng đã khang trang hơn. Dẫu vậy, thuận lợi hơn so với quá khứ, nhưng để bám trụ công tác nơi đây, vẫn là thử thách không hề dễ dàng. Chẳng thế mà suốt gần 20 năm qua, kể từ khi thành lập đến nay, ngôi trường vùng cao này chưa từng đón một nữ giáo viên nào lên công tác. Điều đó đủ để hiểu sự gian khó, khắc nghiệt ở Cao Sơn.
Đường lên Cao Sơn đã rộng hơn, phẳng hơn nhưng vẫn là thử thách chưa bao giờ dễ dàng.
Ngồi trước tôi, thầy Hải, người đàn ông ngoài 40 tuổi, đăm chiêu nhìn về những bản làng rồi lại hướng về tốp học sinh nơi sân trường, bộc bạch: “Khi mới lên cho đến lúc có trường mới, cái khó không chỉ ở cơ sở vật chất mà sự học của con em bấy giờ cũng chưa được phụ huynh quan tâm”. Nói như thầy Hải, cái chữ bấy giờ với bà con vẫn nghĩ như một thứ gì đó xa xỉ, học cũng được mà không học cũng chẳng sao. Học chữ là để phấn đấu làm cán bộ, chứ lên nương trồng sắn, vào rừng đốn gỗ... thì chữ nghĩa có giúp ích gì đâu. Bởi thực tế ấy, các thầy muốn có học sinh để dạy thì phải phối hợp với trưởng thôn đến các hộ gia đình vận động. Một năm có nhiều đợt như vậy, chuyện các thầy đi “xin trò” như dịp đầu năm học, sau tết, sau mỗi cơn bão lũ... “Giờ thì khác rồi. Tất cả con em đều được đến trường. Đời sống người dân ở Cao Sơn đã được nâng lên nhờ có đường, có trường, người dân có kinh tế khá hơn. Sự học cũng được quan tâm hơn, con em đến trường được Nhà nước hỗ trợ chính sách, từ cấp gạo, hỗ trợ tiền, cho đến thẻ bảo hiểm y tế...”, thầy Hải nói, ánh mắt ánh lên niềm vui hướng về lũ trẻ. Tôi hỏi một em học sinh của thầy. Bạn trẻ có cái tên đẹp - Hà Bảo Thi, học sinh lớp 8. Thi gợi sự chú ý với tôi bằng bộ quần áo của đồng bào Thái truyền thống. Trái với suy nghĩ, Thi không e thẹn, em dõng dạc nói về ước mơ của mình: “Học không chỉ để biết chữ mà còn để trở thành cô giáo đầu tiên của thôn, của ngôi trường vùng cao này”.
Tiếng trống trường vang lên giữa núi rừng Cao Sơn, thầy trò lại trở về bục giảng và lớp học. Thầy Nguyễn Thế Tài, Hiệu trưởng Trường Tiểu học và THCS Cao Sơn, bấy giờ thông tin cho tôi biết: Năm học 2025-2026, nhà trường có tổng 117 học sinh, trong đó tiểu học 57 em, THCS 60 em. Ở ngôi trường chỉ toàn các thầy, ngoài sự nghiệp “gieo” chữ, cuộc sống thường ngày cũng trở thành thử thách. Ban ngày các thầy cầm phấn, chiều muộn lại lúi húi bếp núc, thậm chí khâu vá quần áo. Riêng phần lương thực, thực phẩm, các thầy tự trồng rau xanh, còn thịt cá thì phụ thuộc thời tiết. Thuận lợi thì có người dưới xuôi mang lên bán; mưa bão thì các thầy tích trữ đồ khô như cá biển, lạc, vừng... để duy trì. Chính trong gian khó ấy, các thầy càng gắn bó với nhau hơn. Khi hỏi về tâm tư, nguyện vọng thuyên chuyển về xuôi, hầu như ai cũng mong muốn tiếp tục cống hiến. Với các thầy, đây đã là quê hương thứ hai ấm áp nghĩa tình. Sự cống hiến ấy, nói như trưởng thôn Son, Hà Mạnh Công: “Bà con biết ơn các thầy lắm! Dẫu còn nghèo khó, nhưng chúng tôi luôn động viên con em đến lớp”.
Những ánh mắt trẻ thơ, những nụ cười hồn nhiên trong trẻo như sợi dây vô hình giữ bước chân người thầy ở lại. Giữa núi đồi, chữ nghĩa được gieo không chỉ bằng phấn trắng, mà bằng cả niềm tin và sự kiên nhẫn. Cuộc sống hôm nay đã bớt dần khó nhọc, nhưng những ký ức gian khó một thời thì chẳng bao giờ mất đi. Hàng thập kỷ qua, Cao Sơn vẫn đặc biệt với tôi và nhiều người. Ở đó có một ngôi trường chưa từng có bóng dáng cô giáo. Những người thầy, người đàn ông, đã gồng gánh cả phần việc của chị em, vừa “gieo” chữ, vừa “giữ lửa” cho mái trường vùng cao. Đến hôm nay, trong mắt họ, ngọn lửa ấy vẫn chưa bao giờ tắt.
Bài và ảnh: Đình Giang
Bình luận
Xin vui lòng gõ tiếng Việt có dấu