Bà chúa Đồn Trang Nguyễn Thị Ngọc Đô
Nổi tiếng xinh đẹp lại thông minh, tài giỏi, giúp dân làng khai khẩn đất đai, làm ăn sinh sống đồng thời giúp chúa Trịnh Tùng tổ chức hậu cần trong thời kỳ phò Lê diệt Mạc - bà chính là Nguyễn Thị Ngọc Đô - thứ phi của Bình An vương Trịnh Tùng.
Di tích lịch sử Đền thờ Bà chúa Đồn Trang ở xã Quý Lộc.
Lý lịch di tích đền Bà chúa Đồn Trang có ghi cụ thể về việc thờ bà Nguyễn Thị Ngọc Đô, sinh năm Nhâm Thân (1572) tại làng Nguyệt Viên, xã Hoằng Quang (nay là phường Nguyệt Viên). Thân sinh ra bà là Nguyễn Như Giai, từng đỗ Quốc tử giám giám sinh, hiệu Nguyệt Khê tiên sinh, được phong là Quang tiến lộc đại phu, Thuần tiến hầu.
Xung quanh chúa Trịnh Tùng có rất nhiều điều lịch sử cần làm sáng tỏ, bao gồm vai trò thực sự của ông trong thời kỳ Lê Trung hưng, những mâu thuẫn với họ Nguyễn và quá trình củng cố quyền lực của dòng họ Trịnh. Trịnh Tùng (1550-1623) là con trai của Minh Khang Thái vương Trịnh Kiểm với phu nhân Ngọc Bảo, con gái của Thái sư Nguyễn Kim - người dựng cờ “phù Lê diệt Mạc” ở nửa đầu thế kỷ 16. Trịnh Tùng cũng là một nhân vật hết sức đặc biệt trong lịch sử Việt Nam. Nếu không thực sự có bản lĩnh, có tài năng và những tính toán thì Trịnh Tùng khó có thể giữ yên được ngôi vị khi bên trong phải lo dẹp nội loạn, yên dân; bên ngoài phải chống trả các cuộc đánh phá của quân nhà Mạc. Một trong những tính toán để giữ được quyền lực của Trịnh Tùng là cần có thêm nhiều sự ủng hộ, trong đó cách hiệu quả nhất là hôn nhân. Vì thế mới có cuộc hôn nhân với nàng Lại Thị Ngọc Nhu - con gái của quận công Lại Thế Khanh; Đặng Thị Ngọc Dao - con gái của Nghĩa quận công Đặng Huấn. Đặng Thị Ngọc Dao chính là người đã sinh ra Trịnh Tráng, người kế vị ngôi chúa sau khi Trịnh Tùng băng hà.
Bà Nguyễn Thị Ngọc Đô, người được cho là thứ phi của Bình An vương Trịnh Tùng, dù trong đền Bà chúa Đồn Trang chưa thấy bản thần tích, trong “Trịnh gia chính phả” cũng không đề cập tên bà. Lý giải điều này có giả thuyết đặt ra là do bà không có con với chúa Trịnh Tùng (?).
Tài liệu ghi chép, bà Nguyễn Thị Ngọc Đô có công giúp dân làng khai khẩn đất đai, làm ăn sinh sống. Đặc biệt bà được giao quyền chỉ huy, quản lý Đồn Trang Quý Lộc. Cụ thể là giúp chúa Trịnh Tùng tổ chức hậu cần, quản lý hệ thống kho quân lương, quân nhu, voi, ngựa... Sử sách ghi rằng, đội quân nhà Lê được cấp đủ quân lương, nên “đi đến đâu, không mảy may xâm phạm của dân”. Khi bà chết, người dân trong làng đã xây đền và thờ cúng.
Còn tại sao lại gọi là Bà chúa Đồn Trang? Có thể là do đền thờ tọa lạc trên đồi Đồn Trang chăng?. Trong giai đoạn 60 năm chiến tranh Lê - Mạc (1533 - 1593), triều đình nhà Lê trung hưng có những địa danh trọng yếu. Ngoài các hành dinh Vạn Lại, Yên Trường, Biện Thượng, phải kể đến căn cứ Đồn Trang ở Quý Lộc.
Đứng ở trên đỉnh đồi Đồn Trang nhìn ra 4 hướng, thiên nhiên thật hữu tình. Phía Đông Nam là dòng sông Mã, phía Tây là dãy núi Nghễ, hai bên là núi Cao và núi Ngang trông giống như một cái “ngai vàng”. Khu vực xung quanh Đồn Trang có nhiều hang động, địa danh mang dấu tích gắn với sự nghiệp chinh chiến, khôi phục nhà Hậu Lê của Bình An vương Trịnh Tùng, như: thung Voi, thung Bò, thung Lợn, hang Bình Giã (kho chứa lương thực, quân nhu)... “Từ bến thuyền trên bờ hữu ngạn sông Mã ở Quý Lộc, hệ thống đường thủy qua sông Mã tới hành cung Biện Thượng, rồi qua sông Cầu Chày tới hành cung Vạn Lại; hoặc từ sông Mã nối với sông Chu tới hành cung Yên Trường. Từ Quý Lộc ra Bắc, vào Nam đều thuận tiện. Đồn Trang Quý Lộc cũng gần con đường thiên lý vào Nam tới Nghệ An, Thuận, Quảng hoặc theo đường tây đạo qua Thiên Quan, Hưng Hóa rồi tới Tuyên Quang, Kinh Bắc, Lạng Sơn, hay theo ngả phía Đông xuống Sơn Nam tiến vào Thăng Long” (theo bài viết “Đồn Trang Quý Lộc - Căn cứ hậu cần của Tiết chế Trịnh Tùng” của tác giả Văn Từ).
Nằm trên đồi, ngôi đền 3 gian có lịch sử hơn 400 năm tuổi được bao bọc xung quanh là những hàng cổ thụ xanh mát, ngoài ra là rất nhiều loại cây dược liệu, tràn ngập hương thơm. Vào các ngày lễ, tết người dân ở đây thường xuyên đến đền thắp hương khấn bà chúa để cầu cho mưa thuận, gió hòa, con người bình an, khỏe mạnh.
Ông Lê Văn Thống, trông coi đền thờ cho biết: Trải qua thời gian, do bom đạn chiến tranh, thậm chí nhiều lần đền bị cháy, đền Bà chúa Đồn Trang chỉ còn một số đồ thờ tự, trong đó có bát hương cổ bằng đá có khắc 4 chữ “Nhất Mẫu tự sơn”. Để đáp ứng nhu cầu tâm linh của bà con địa phương, năm 2006, sau khi được cấp lại đất, cùng với nguồn kinh phí của địa phương và huy động từ con em xa quê, các bản hội... công trình phục dựng đền chính nơi thờ Bà chúa Đồn Trang đã được xây dựng khang trang trên diện tích 1.000m2, gồm các hạng mục như: nhà thờ chính, tháp bút cao 7m hai bên, cổng, tường hoa, bia đá, ngoài ra còn xây dựng các công trình phụ trợ khác. Đền đã được công nhận là Di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh năm 2013.
Đến nay, những câu chuyện về Bà chúa Đồn Trang ghi chép trong chính sử là rất ít. Song, với một địa chỉ như đồi Đồn Trang ở Quý Lộc cùng những câu chuyện liên quan đến chúa Trịnh Tùng, chúng ta phần nào hiểu được về vai trò của những người phụ nữ có liên quan đến chúa Trịnh Tùng, trong đó có thứ phi Nguyễn Thị Ngọc Đô. Hàng năm, vào mùng 5 tháng 3 âm lịch - ngày giỗ bà đồng thời cũng là ngày hội làng, đông đảo Nhân dân và khách thập phương tham gia rước kiệu từ Giếng Chúa tới đền Đồn Trang cúng tế.
(Bài viết có sử dụng tư liệu trong sách Đại Việt sử ký toàn thư; Bản dịch Phổ ký họ Nguyễn ở thôn Nguyệt Viên, xã Hoằng Quang, huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa; Lý lịch di tích Đền thờ Bà chúa Đồn Trang và một số tư liệu khác).
Bài và ảnh: Chi Anh
Bình luận
Xin vui lòng gõ tiếng Việt có dấu