Tin liên quan
Đọc nhiều
Một vùng đất nghề
Khách tham quan các sản phẩm đồ đồng mỹ nghệ Chè Đông.
Với tinh thần yêu lao động, yêu cuộc sống và bàn tay tài hoa, những con người chất phác sống cạnh sông Mã, sông Chu đã sáng tạo nên nhiều sản phẩm thủ công độc đáo. Từ đó, biến mảnh đất Thiệu Hóa trở thành một vùng đất nghề nổi tiếng của xứ Thanh.
Thiệu Hóa từng nức tiếng một thời với nghề đúc đồng, mà cái “tâm nghề” là làng Chè Đông (xã Thiệu Trung). Các sản phẩm của làng nghề như tượng, chuông, đồ thờ, đồ dùng sinh hoạt... đã có mặt khắp nhiều tỉnh, thành trong cả nước. Tương truyền, từ thời Lý, dòng họ Vũ ở giáp Bối Lý đã đưa nghề đúc đồng vào làng Chè Đông. Ban đầu chỉ có vài hộ theo nghề, dần dà nghề đúc đồng lan ra cả làng và thu hút các làng lân cận tham gia cung cấp các dịch vụ làng nghề hay đưa các sản phẩm ra thị trường. Thế nhưng, khoảng những năm 80 của thế kỷ trước, làng nghề trở nên sa sút vì không thể cạnh tranh nổi với cơ chế thị trường. Làng nghề đìu hiu, các lò đúc đồng lạnh ngắt than lửa và người làm nghề đành xoay qua tìm nghề khác mưu sinh.
Tìm về làng nghề từng in đậm dấu ấn trên mảnh đất Thiệu Hóa, chúng tôi đã gặp nghệ nhân Nguyễn Bá Châu, một trong những người đã góp công khôi phục làng nghề và nhen lại lửa nghề. Ông cho biết: Để có một sản phẩm tinh xảo và giá trị đòi hỏi ở người thợ nhiều sự sáng tạo và nhẫn nại. Sáng tạo bắt đầu từ những ý tưởng mới và thể hiện ở từng công đoạn làm ra sản phẩm. Và sản phẩm mang tính bước ngoặt, quyết định đến sự thành bại của việc khôi phục nghề đúc đồng là chiếc trống đồng, được đúc dưới dạng một sản phẩm lưu niệm độc đáo và tinh xảo. Từ ý tưởng đến khi hoàn thiện thành tác phẩm thủ công trải qua ngót chục năm mày mò tìm kiếm thông tin, mẫu mã, hoa văn, cách đúc, nguyên liệu và qua nhiều lần đúc thử không thành công. Có thể nói, chiếc trống đồng là thành quả của một quá trình kỳ công sáng tạo của người thợ lành nghề, tài hoa và nhẫn nại. Cũng nhờ sản phẩm thủ công tinh mỹ ấy mà làng nghề đã có cơ sở để vực dậy. Đến nay, ngoài trống đồng, làng Chè Đông còn đưa ra thị trường nhiều sản phẩm đẹp mắt, cầu kỳ, nhất là đồ thờ, đồ trang trí. Đồ đồng Chè Đông đang dần tìm cho mình chỗ đứng trên thị trường và ít nhiều tìm lại bóng dáng một thời hoàng kim, hay chí ít cái nghề truyền thống mấy trăm năm hiện đã và đang được hậu thế trân trọng, gìn giữ.
Nằm bên hữu ngạn sông Chu ăm ắp phù sa, làng Hồng Đô (xã Thiệu Đô) nổi tiếng khắp vùng, khắp tỉnh với nghề dệt nhiễu. “Đẹp nhất là nhiễu Hồng Đô”, câu ca gắn liền với những thước nhiễu được dệt từ đôi tay cần mẫn, khéo léo của người phụ nữ, đã góp phần làm đẹp cho người và làm đẹp cho đời. Nói về lịch sử hình thành làng nghề, các cụ cao niên trong làng kể lại: Tương truyền khoảng hơn 1 thế kỷ trước, trong làng có ông họ Phạm thường mang tơ lụa đi bán khắp nơi, đã may mắn học được bí mật của nghề dệt nhiễu. So với dệt lụa, dệt nhiễu công phu hơn, vì phải qua nhiều công đoạn. Sợi dệt nhiễu phải là sợi xe tám và khung dệt nhiễu cũng phải to hơn, sử dụng 2 go, 2 thoi. Quá trình dệt ra một tấm nhiễu cần sự phối hợp liên tục, nhịp nhàng và hết sức khéo léo giữa chân đạp và tay đưa. Tấm nhiễu sau khi dệt xong phải thêm nhiều công đoạn ngâm, nhuộm mới ra thành phẩm cuối cùng.
Cũng giống như nghề đúc đồng, nghề nuôi tằm, ươm tơ, dệt nhiễu đã và đang đối diện với nhiều khó khăn, thách thức trong quá trình tồn tại. Các sản phẩm thủ công làm ra tiêu tốn nhiều chi phí, thời gian và khó cạnh tranh với các sản phẩm sản xuất công nghiệp cùng loại. Khung dệt giảm dần, thợ dệt ít đi và tiếng lách cách từng vang khắp làng trên, xóm dưới cũng im ắng dần. Nghề dệt nhiễu thu hẹp dần phạm vi vào một số tổ hợp sản xuất và những hộ gia đình vẫn nặng tình với nghề. Được sự hỗ trợ của Ngân hàng Thế giới, Tổ chức phi chính phủ AILO và chính quyền huyện Thiệu Hóa, năm 2012, xã Thiệu Đô đã triển khai thực hiện Dự án “Nâng cao năng lực cạnh tranh cho các hộ trồng dâu, nuôi tằm và chế biến sản phẩm từ tơ tằm” trên địa bàn. Cùng với ý thức, tinh thần trách nhiệm trong việc gìn giữ nghề truyền thống của chính quyền địa phương và người dân, nghề dệt nhiễu và làng nhiễu Hồng Đô đang có cơ sở để duy trì và phát triển.
Các làng nghề truyền thống là một không gian văn hóa - kinh tế - xã hội - công nghệ đặc biệt. Ở đó bảo lưu, duy trì và kế thừa một “phương thức sản xuất”, với các mối quan hệ, công cụ và cách thức riêng có, để tạo ra những sản phẩm thủ công mang đậm dấu ấn vùng miền, văn hóa, tập tục, quan niệm, thậm chí là tư tưởng, tình cảm của con người. Đồng thời, mỗi làng nghề là một môi trường văn hóa, với nhiều tập quán, tín ngưỡng, tập tục sinh hoạt, lễ hội, phường hội, nếp sống với những nét đặc trưng riêng và hàm chứa sâu sắc tính nhân văn. Điều này càng đúng với những làng nghề có lịch sử lâu đời như đúc đồng Chè Đông, nhiễu Hồng Đô hay lụa đũi Lai Duệ, cót nứa Kẻ Giàng, đồ gốm Kẻ Vồm, bánh đúc Chợ Go... đã và đang tồn tại trên mảnh đất Thiệu Hóa. Các làng nghề ấy đã tạo ra những sản phẩm thủ công mỹ nghệ không đơn thuần là sản phẩm sinh hoạt hàng ngày, mà không ít trong số chúng là những tác phẩm nghệ thuật mang đậm dấu ấn văn hóa truyền thống, trí tuệ dân gian và trình độ phát triển xã hội. Những sản phẩm ấy được làm ra bằng tinh thần yêu lao động, yêu cuộc sống và bàn tay tài hoa của những con người chất phác, hồn hậu. Để rồi đến lượt mình, sự tồn tại của các làng nghề truyền thống như là một minh chứng cho sự trao truyền, tiếp nối và phát triển trên mảnh đất của văn hóa núi Đọ này.
Hoàng Xuân
{name} - {time}
- 2024-04-20 19:00:00
[Podcast] Truyện ngắn: Huyền thoại chiến tranh và hòa bình
- 2024-04-20 15:22:00
Văn hóa ẩm thực: Mỹ tục đặc sắc trên quê hương vua Lê Đại Hành
- 2019-10-05 20:26:00
Vở chèo “Vòng vây nghiệt ngã”: Từ bài học thức tỉnh lương tâm
Gìn giữ 12 đạo sắc phong cổ ở làng Quần Thanh
Xã Định Hải xây dựng đời sống văn hóa gắn với xây dựng nông thôn mới
Chuyện xây dựng nhà văn hóa sau sáp nhập thôn
Tổng hợp ý kiến nhân dân về 5 tác phẩm vào vòng chung khảo cuộc thi “Sáng tác Biểu tượng tỉnh Thanh Hóa”
Xã Vạn Xuân bảo tồn văn hóa truyền thống dân tộc Thái
Ấn tượng xứ Thanh trong lòng du khách quốc tế
Nghệ sĩ nhiếp ảnh Mai Nam với Thanh Hóa
Một vùng non nước Nhân Trầm – Cửa Đặt
Nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Cao Sơn Hải: Trọn đời duyên - nợ với văn hóa dân gian Mường