(Baothanhhoa.vn) - Những ngày tháng 7 thiêng liêng lịch sử, trong lòng tôi chợt ngân lên một sắc hoa màu đỏ, đỏ như sắc màu cờ Tổ quốc, như sông Hồng nặng đỏ phù sa. Là “Màu hoa đỏ” trong bài hát của nhạc sĩ Thuận Yến phổ thơ Nguyễn Đức Mậu - cả hai người cũng đã từng là người lính, đã từng đi dọc Trường Sơn, đã từng chứng kiến bao sự hy sinh của đồng đội, đã từng có mẹ già ở hậu phương trông ngóng tin con.

Khúc tráng ca tháng bảy

Những ngày tháng 7 thiêng liêng lịch sử, trong lòng tôi chợt ngân lên một sắc hoa màu đỏ, đỏ như sắc màu cờ Tổ quốc, như sông Hồng nặng đỏ phù sa. Là “Màu hoa đỏ” trong bài hát của nhạc sĩ Thuận Yến phổ thơ Nguyễn Đức Mậu - cả hai người cũng đã từng là người lính, đã từng đi dọc Trường Sơn, đã từng chứng kiến bao sự hy sinh của đồng đội, đã từng có mẹ già ở hậu phương trông ngóng tin con.

Khúc tráng ca tháng bảyHài cốt liệt sĩ quân tình nguyện và chuyên gia Việt Nam hy sinh ở nước CHDCND Lào được Đảng bộ, chính quyền, quân và dân tỉnh Thanh Hóa đưa về an táng tại Nghĩa trang Liệt sĩ Quốc tế Đồng Tâm (Bá Thước).

Và lời ca ấy thật bi tráng, thật thẳm sâu, thật liêng thiêng: “Có người lính/ Mùa thu đã ra đi từ mái tranh nghèo/ Có người lính/ Mùa xuân đã ra đi từ đó không về/ Dòng tên anh khắc vào đá núi/ Mây ngàn hóa bóng cây che/ Chiều biên cương trắng trời sương núi/ Mẹ già mỏi mắt nhìn theo”. Và giai điệu khúc ca ấy hùng hồn như một tráng ca bất tử khắc vào non sông đất nước: “Việt Nam ơi! Việt Nam/ Ngọn núi nơi anh ngã xuống/ Rực cháy lên màu hoa đỏ phía rừng xa/ Rực cháy lên màu hoa đỏ cuối hoàng hôn”. Vầng hào quang ấy chính là khúc tráng ca bất tử tháng 7 của những người lính đã ngã xuống để bảo vệ đất nước thân yêu. Máu các anh đã thấm vào đất đai Tổ quốc. Những người lính tuổi đời còn rất trẻ mà trong ký ức của mình còn mang theo màu phượng vỹ đỏ hồng sân trường ngày tạm biệt thầy cô, bè bạn lên đường nhập ngũ, còn mang theo màu hoa gạo đỏ tháng 3 ngày giáp hạt trên con đê làng uốn cong ôm trọn làng mạc thôn xóm, còn mang theo màu hoa hồng tượng trưng cho tình yêu nồng cháy đầu đời. Và trong những đêm chiến trận dưới những làn đạn rạch đỏ trời vẫn mơ về ngày chiến thắng đất nước hòa bình thống nhất trọn vẹn trong những màn pháo hoa lộng lẫy...

Chiến tranh đã đi qua, trên đất nước từ Nam chí Bắc đâu đâu cũng gặp những nghĩa trang liệt sĩ. Đó là ngôi nhà chung của những đồng đội về nằm bên nhau, nằm theo đội hình đánh giặc, nằm trong đội ngũ hành quân. Và ta nghe trong rì rầm tiếng đất, tiếng của ngày xưa của lịch sử vọng về với những hợp âm trầm da diết khôn nguôi. Mỗi nấm mồ các anh là những phím đàn trắng, phím đàn trong bầu đàn đất nước vẫn ngân rung, ngân vọng, vẫn điệp khúc vang xa dạt dào bay bổng, vẫn cộng hưởng khúc ca bi tráng hào hùng. Mỗi phím đàn là một cuộc đời một gương mặt, một số phận, một tính cách nhưng có chung một dáng đứng xung phong, vẫn trong tư thế tiến công tạc nên “Dáng đứng Việt Nam” bất tử để “Tổ quốc bay lên bát ngát mùa xuân” (thơ Lê Anh Xuân). Có thể trong những phím đàn ngôi mộ ấy đã có tên hoặc chưa có tên nhưng các anh không bao giờ vô danh. Lịch sử ghi tên các anh, những tuổi đời còn rất trẻ mãi mãi tuổi hai mươi. Hoa rừng và hương thơm nở trên nấm mồ trắng quanh các anh. Ở Nghĩa trang Trường Sơn, cây bồ đề vẫn tỏa bóng mát, tiếng chuông mang theo tiếng vọng của những linh hồn bất tử. Tôi nhớ cả tiếng chuông chùa ngoài đảo Trường Sa, ngôi chùa như một cột mốc tâm linh thiêng liêng Tổ quốc; tiếng chuông chùa ở đất lúa Thái Bình nơi có bao nữ tu, nhà sư là thanh niên xung phong từ chiến trường về xuống tóc: “Sao sư nữ không gõ mõ - Lại vừa tụng kinh lại gõ đầu mình” (thơ Phạm Tiến Duật) khi mảnh đạn còn nằm nhức nhối trong đầu, ngày ấy mái tóc rụng dần theo những cơn rốt rét.

Khúc tráng ca tháng bảy là khúc tráng ca bất tử. Bất tử trong những chiến công, bất tử trong những địa danh lịch sử, bất tử cả trong ký ức của người thân. Chỉ một dải đất Bắc miền Trung mà có bao cái tên gọi lên ta đã hình dung những tháng ngày ác liệt. Cái khúc giữa trên đôi vai mẹ của đòn gánh hai đầu đất nước của mẹ, cái eo thắt như thắt lưng của mẹ - Người mẹ Việt Nam mà tôi đã viết: “Hầu bao của mẹ thắt nhiều lo toan”. Và trong những năm tháng chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ trên trận tuyến giao thông đã lập nên bao chiến công kỳ tích. Đó là một cầu Hàm Rồng (Thanh Hóa) trên dòng sông Mã mang tên con ngựa tung bờm trắng xóa, đã sừng sững không chỉ bắc nhịp cầu cho xe vào tiền tuyến mà hai đầu cầu đã định vị hai cột trụ vững chắc để bắc niềm tin, bắc ý chí, bắc cầu vồng cho một khát khao hòa bình thống nhất. Đó là địa danh thung lũng Truông Bồn (Nghệ An) bất tử với sự hy sinh của “tiểu đội thép” trước giờ tổng thống Mỹ tuyên bố chấm dứt ném bom đánh phá miền Bắc không điều kiện. Đó là Ngã ba Đồng Lộc (Hà Tĩnh) bất tử với sự hy sinh của 10 cô gái thanh niên xung phong trong cái chiều định mệnh. Những cô gái tuổi đời còn rất trẻ yêu ca hát, tinh nghịch hồn nhiên giờ đã về nằm bên nhau trong nghĩa trang với rất nhiều màu hoa cúc trắng như tên cô gái Hồ Thị Cúc mà nhà thơ Yến Thanh đã viết bài thơ “Cúc ơi” nổi tiếng. Người đến viếng mộ với một màu trắng đến nao lòng, trắng trong tinh khiết. Quanh mộ các cô còn bất tử bạt ngàn màu hoa sim. Ôi màu hoa tím thủy chung mộc mạc trên đất đồi khô cằn, màu sim chắt chiu mật ngọt cho những trái sim căng mọng những túi mật. Và “Hang tám cô” trên đất lửa Quảng Bình, nằm trên tuyến đường 20 Quyết Thắng hy sinh trong cái hang đá như một hộp đàn vẫn âm vọng day dứt khôn nguôi, vẫn lưu lại những âm thanh cuối cùng của họ khát khao tình yêu cuộc sống khi bị đá tảng lấp xuống cửa hang. Có một mẹ Thứ ở Quảng Nam biểu tượng vĩnh hằng của mẹ Việt Nam Anh hùng đã 9 lần nhận giấy báo tử của các con. Mẹ đã hóa thân bất tử, thành tượng đài sừng sững được dựng lên ở núi Cấm (TP Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam).

Bà con thôn xóm kể: Cứ đến ngày thương binh, liệt sĩ, mẹ Thứ lại lọ mọ chống gậy đến bàn thờ thắp 9 ngọn nến, 9 nén hương và xếp 9 cái bát, 9 đôi đũa bên mâm cơm để gọi các con về. Tượng đài mẹ, tóc bay trong gió với những nét chạm khắc rất thần của nhà điêu khắc và trong đôi mắt với những nếp vân đá như chìm rạn vết chân chim thẳm sâu của mẹ vẫn ngóng trông xa vời như đợi các anh. Bây giờ thì mẹ đã về yên nghỉ với các anh nhưng tượng đài sống mãi với non sông đất nước, trường tồn vĩnh cửu với thời gian vĩnh hằng.

Trở lại thành cổ Quảng Trị những ngày tháng 7 này, tôi bước nhẹ trên thảm cỏ xanh. Ôi! cỏ xanh non mát, cỏ xanh dịu êm, cỏ xanh bất tử; và ngân vọng trong tôi bài hát “Cỏ non thành cổ” của nhạc sĩ Tân Huyền làm thức dậy với bao cung bậc bồi hồi, trầm mặc: “Thắp một nén hương viếng người nằm dưới cỏ/ Cỏ xanh non tơ, cỏ xanh non tơ/ Xin chớ vô tình với người hy sinh/ Trên mảnh đất quê mình”. Vâng, đất nước quê hương không bao giờ vô tình trước sự hy sinh của các anh, các chị, không vô tình trước cả những người thương binh đã để lại một phần máu thịt vào đất đai Tổ quốc. Những ngôi nhà tình nghĩa, những trạm điều dưỡng thương binh như một mái ấm nghĩa tình. Và có biết bao người cựu chiến binh vẫn lặng lẽ đi tìm đồng đội để đưa các anh về nằm bên nhau. Nếu ai có dịp về Nghĩa trang Liệt sĩ Quốc tế Đồng Tâm (Bá Thước), sẽ không khỏi rưng rưng khi nhìn thấy rất nhiều ngôi mộ của các liệt sĩ quân tình nguyện và chuyên gia Việt Nam hy sinh ở nước CHDCND Lào được an táng tại đây. Nhà thơ quân đội Nguyễn Đức Mậu đã có hai câu thơ đọc lên làm ta thổn thức rưng rưng nước mắt trong “Trường ca sư đoàn”: “Nếu tất cả về đây đông đủ - Sư đoàn tôi sẽ thành mấy sư đoàn”. Sự hy sinh quả thật lớn lao và sự tiếp nối truyền thống cũng rất đáng tự hào viết tiếp trang sử vàng: “Lớp cha trước, lớp con sau - Đã thành đồng chí chung câu quân hành” (Tố Hữu).

Tùy bút của Nguyễn Ngọc Phú



 {name} - {time}

 Trả lời

{body}
 {name} - {time}
{body}

0 bình luận

Ý kiến của bạn sẽ được biên tập trước khi đăng. Vui lòng gõ tiếng Việt có dấu

Địa phương

Xem thêm TP.Thanh Hóa

Thời tiết

Chia sẻ thông tin với bạn bè!
Tắt [X]