Khèn bè - “linh hồn” của đồng bào dân tộc Thái
Dù buồn hay vui, đối với đồng bào dân tộc Thái xứ Thanh, chiếc khèn bè như một người bạn, để họ cất lời thủ thỉ và được đáp lại những thanh âm động viên, an ủi.
Ông Hà Văn Tình, người duy nhất ở bản Bàn, xã Quang Chiểu còn biết làm khèn bè.
Chuyện về khèn bè
Sự tích chiếc khèn bè chẳng biết có tự khi nào nhưng đã lâu lắm rồi, từ thế hệ nọ sang thế hệ kia, đồng bào dân tộc Thái vẫn kể cho nhau nghe chuyện ngày xửa ngày xưa.
Xứ sở người Thái ở Mường Ca Da (nay thuộc xã Hồi Xuân), có bản Chiềng trù phú, bình yên nép mình dưới chân núi Pù Luông, phía trước là dòng Mã giang trong xanh in bóng những ngôi nhà sàn, nương lúa, nương ngô và những cô gái Thái ra bến múc nước. Những đêm trăng sáng, các chàng trai thổi sáo ôi bên cạnh các cô gái để tỏ tình những lời yêu, lời thương. Trong số các chàng trai đó có Văn Sinh, chàng đẹp người, đẹp nết và tài hoa, nhất là khi thổi sáo ôi, pí pặp, chàng thổi hay đến mức các cô gái ai cũng ao ước được làm vợ chàng.
Thời gian trôi đi, chàng Văn Sinh cưới một cô gái trong bản, vợ chồng họ sống với nhau rất hạnh phúc. Cuộc sống đang tươi đẹp thì tai họa ập xuống gia đình họ, Văn Sinh bị bệnh hủi cả hai chân. Do lo sợ lây lan, mọi người đành phải làm một nhà bè nổi cho chàng ở ven bờ sông Mã để cách ly. Ngoài ngày ba bữa cơm do gia đình chu cấp, chàng chỉ biết thổi sáo ôi, pí pặp cho vơi nỗi buồn. Một hôm do quá ngứa ở chân, nên Văn Sinh vật vã, không may đè vỡ chiếc sáo ôi yêu quý. Và rồi, rất may mắn, chàng đã nhìn thấy “mạy páo” (thuộc họ cây nứa) ở trên thượng nguồn trôi đến và dạt vào cạnh nhà bè. Chàng chợt lóe lên một luồng suy nghĩ: Các cây páo này sẽ thành những ống sáo đây, thế là mình có bạn rồi” Và chàng đã kết các ống sáo này thành một bè. Nhưng vì các ống giống nhau về kích thước, nên khi thổi thì âm thanh phát ra giống nhau. Tức quá, chàng cầm lấy con dao phạt chéo phần trên chiếc khèn, nhưng khi thổi thử, mỗi chiếc ống lại có âm thanh khác nhau, có âm cao, âm vừa và âm thấp. Chàng chỉnh dần các ống cho hợp lý, dễ sử dụng và chiếc khèn bè ra đời từ đó.
Bảo vật của người Thái
Đối với nghệ nhân Cao Bằng Nghĩa (xã Hồi Xuân), ông có thể nói cả ngày về khèn bè. Bởi, ông cho rằng: “Khèn bè là nhạc cụ đa thanh, âm vực rộng với đủ 7 nốt nhạc, đặc biệt là có những âm thanh sóng đôi, diễn tả được hầu hết các làn điệu dân ca, nhạc hiện đại và làm nền cho các điệu dân vũ. Bởi vậy, khèn bè có nhiều sự khác biệt với những cây khèn của các dân tộc khác và luôn có vị trí xứng đáng trong đời sống nghệ thuật của người Thái”. Ông còn khẳng định: Trước đây ở Hồi Xuân, có mấy chàng trai cô gái mà không trực tiếp thổi và nghe tiếng khèn.
Nếu Hồi Xuân là “trung tâm” của người Thái Thanh Hóa, thì ở xã Quang Chiểu, nơi vùng biên xa xôi của tỉnh có tới 98% người dân tộc Thái trong tổng số gần 5.700 nhân khẩu. Tuy vậy, người biết thổi khèn chỉ còn đếm trên đầu ngón tay, còn người làm khèn thì chỉ duy nhất có ông Hà Văn Tình ở bản Bàn. Dù tuổi 66 nhưng hằng ngày ông vẫn miệt mài vào rừng tìm cây mạnh pao, rồi về tỉ mẩn gọt rũa, cưa đục để làm nên chiếc khèn bè chỉ với mục đích cố gắng gìn giữ văn hóa dân tộc.
Ông kể: “Người Thái chúng tôi nghe tiếng khèn bè từ trong bụng mẹ. Không chỉ được sử dụng trong những dịp lễ, tết, chúc mừng, đón khách, cưới xin... tiếng khèn trở thành giai điệu hò hẹn, nhắn gửi yêu thương của biết bao chàng trai, cô gái”.
Kể về việc chế tác cây khèn bè, ông cho biết: “Tôi đã nhờ người thân ở Sơn La mua một cây khèn bè, rồi về tháo tung, xem xét nghiên cứu, tự lắp vào. Dựa trên nguyên mẫu, tôi đi kiếm nguyên liệu, tìm hiểu cách làm và dần hoàn thiện”. Cây khèn đầu tiên ông phải mất hơn một tháng mới làm xong còn đến nay chỉ chừng dăm ngày là đã có cây khèn chuẩn về âm thanh. Những điệu múa, lời ca hòa vào thanh âm của tiếng khèn vừa rộn ràng và bay bổng hơn nhiều.
Cây khèn bè theo chân nghệ nhân Cao Bằng Nghĩa đi biểu diễn khắp trong và ngoài nước.
Còn nghệ nhân trẻ Vi Văn Thái ở bản Hang, xã Phú Lệ thì kể về quá trình học thổi khèn từ khi 7 tuổi đến nay. Hơn 30 năm, tiếng khèn khiến anh luôn say mê. "Tôi say giai điệu mộc mạc, ân tình của khèn bè, say cái hồn cốt văn hóa của đồng bào Thái chúng tôi”. Chính nhờ những say mê đó mà tiếng khèn bè vẫn còn được lưu truyền và giữ gìn trong đời sống văn hóa của đồng bào người Thái xứ Thanh.
Liệu có mai một ?
Một thời, đi bất kể góc nào trong làng cũng nghe được âm vang của tiếng khèn thì nay chỉ khi có lễ hội những người thổi khèn mới được “trình diễn”. Trường hợp biết chế tác đồng thời biết thổi khèn như ông Hà Văn Tình là có một không hai. Lo sợ đến một ngày chẳng còn ai biết làm khèn bè, ông Tình luôn vận động mọi người học làm khèn, thị phạm từng tí để người ta học thổi khèn, hoàn toàn miễn phí. Ấy thế nhưng như ông tâm sự, họ học được dăm bữa là bỏ vì còn phải đi kiếm sống.
Nhận định về điều này, ông Cao Bằng Nghĩa giải thích: “Không gian biểu diễn bị thu hẹp, đồng bào dân tộc không có điều kiện tiếp cận thưởng thức các giai điệu khèn bè. Đây là một khó khăn lớn đối với công tác bảo tồn văn hóa ở các địa phương của người Thái nói chung và ở xã Hồi Xuân nơi tôi đang sống nói riêng”.
Cụ thể hơn, Câu lạc bộ (CLB) khèn bè mường Ca Da mà ông là chủ nhiệm được thành lập từ năm 2019 với hơn 50 thành viên. “Kể ra, đây là CLB nghệ thuật truyền thống có số lượng hội viên lớn đồng thời hoạt động tích cực. Song chúng tôi cũng dễ dàng nhìn thấy, hội viên đều là người lớn tuổi. Vì thế, bên cạnh hoạt động văn hóa nghệ thuật quần chúng, việc bảo tồn nhạc cụ dân tộc là rất cần thiết, trong đó có trách nhiệm truyền dạy cho thế hệ trẻ. Để khèn bè sống mãi thì không có gì tốt hơn là đưa khèn bè trở về với không gian sinh hoạt cộng đồng, để chính đồng bào tiếp tục phát huy và gìn giữ".
Trong khi chờ người trẻ hiểu được giá trị văn hóa truyền thống, theo nghệ nhân Phạm Bá Lon (xã Na Mèo) là trước mắt nên thường xuyên mở các lớp tập huấn gắn liền với các chương trình phát triển du lịch cộng đồng. Bản Ngàm, xã Sơn Điện chủ yếu là đồng bào dân tộc Thái sinh sống. Những năm gần đây, được sự quan tâm đầu tư của Nhà nước, cùng với sự tuyên truyền, vận động của chính quyền địa phương, một số hộ dân ở bản Ngàm đã mạnh dạn đầu tư vốn cải tạo, xây dựng nhà sàn, mua sắm trang thiết bị để phát triển du lịch cộng đồng, nâng cao thu nhập cho gia đình. Trong 8 tháng của năm 2025, bản thu hút khoảng 8.000 lượt khách đến tham quan, trải nghiệm. Chị Lữ Thị Nguyện, một trong những hộ dân làm du lịch ở bản Ngàm, cho biết: "Nằm bên con sông Luồng thơ mộng và hùng vĩ, lại có phong cảnh đẹp, nguyên sơ, là cơ sở đầu tiên mà bản chúng tôi thu hút khách, nhưng để níu chân họ ở lại theo tôi, chính là những nét văn hóa bản địa còn được lưu giữ, trong đó một phần có tiếng khèn bè du dương bên ánh lửa của những đêm biểu diễn văn nghệ”.
“Tiếng khèn làm đẹp bản Mường/ Như nắng dệt gấm trên quê hương/ Như núi lam xanh sương đêm vừa gội/ Như suối hát tình ca/ Như tiếng người yêu gọi....”. Dẫu biết là đời sống kinh tế phát triển, sự hội nhập văn hóa nhanh và mạnh, nhưng bản làng sẽ bình yên hơn, tâm hồn con người sẽ đẹp hơn nhờ câu hát, tiếng khèn... Những điều tưởng rất nhỏ ấy lại làm nên nét đặc sắc riêng có của đồng bào dân tộc Thái xứ Thanh.
Bài và ảnh: Chi Anh
Bình luận
Xin vui lòng gõ tiếng Việt có dấu