(Baothanhhoa.vn) - Định Nam vương Trịnh Căn (1633-1709) là gạch nối cơ bản giữa thời Trịnh - Nguyễn phân tranh và thời thịnh trị của Đàng Ngoài. Ở vai trò chỉ huy, Trịnh Căn có công chặn đứng thế Bắc tiến của chúa Nguyễn, giữ hòa bình cho Bắc Hà và đưa miền Bắc Đại Việt vào thời kỳ phát triển phồn thịnh trở lại sau nhiều năm binh lửa.

Chúa Trịnh Căn - người củng cố và bảo vệ quyền lực dòng họ Trịnh

Định Nam vương Trịnh Căn (1633-1709) là gạch nối cơ bản giữa thời Trịnh - Nguyễn phân tranh và thời thịnh trị của Đàng Ngoài. Ở vai trò chỉ huy, Trịnh Căn có công chặn đứng thế Bắc tiến của chúa Nguyễn, giữ hòa bình cho Bắc Hà và đưa miền Bắc Đại Việt vào thời kỳ phát triển phồn thịnh trở lại sau nhiều năm binh lửa.

Chúa Trịnh Căn - người củng cố và bảo vệ quyền lực dòng họ Trịnh

Di tích lịch sử quốc gia Phủ Trịnh không chỉ là một công trình kiến trúc đặc sắc mà còn là biểu tượng của quyền lực và văn hóa thời kỳ Lê - Trịnh.

Một thời kỳ binh lửa

Ngược dòng lịch sử, Trịnh Kiểm, “Phi đế phi bá, quyền khuynh thiên hạ”, mở đầu cho một thời kỳ Lê - Trịnh tồn tại song song. Nếu nhà Lê cần có họ Trịnh để bảo vệ và chống Mạc, thì họ Trịnh cần có nhà Lê để việc nắm quyền được danh chính ngôn thuận.

Trịnh Căn là con trai chúa Trịnh Tạc. Ông lớn lên trong thời loạn lạc, vì thế sớm được cha đưa vào trận, không chỉ chống thù ngoài mà còn để dẹp đi những nguy cơ tranh giành ngôi báu trong nội tộc. Ngoài 20 tuổi, trên cương vị thống lĩnh, cầm quân ngoài biên ải, Trịnh Căn đã hành xử nghiêm khắc và công bằng, khiến thuộc hạ một lòng kính phục.

Đặc biệt, cuối năm Canh Tý (1660), Trịnh Căn là người đã “xua” được đại quân nhà Nguyễn do hai danh tướng khét tiếng bách chiến bách thắng Nguyễn Hữu Dật và Nguyễn Hữu Tiến chạy ra tới tận cửa biển Nhật Lệ. Công lao ấy, ông đã được phong lên tới chức Tiết chế Thái úy, Nghi Quận công.

Hơn một năm sau, tháng 10/1661, chúa Trịnh Tạc dẫn đại binh vào Nam và cử con trai là Trịnh Căn làm thống lĩnh cùng các tướng vượt sông Gianh. Thế nhưng, cuộc hành binh này đã không mang lại kết quả mong muốn nên đại quân phải rút về. Năm 1672, Trịnh Căn lại được cha cử đi lĩnh thủy binh Nam tiến nhưng do bị ốm nên công việc cũng không suôn sẻ. Cũng từ đấy giao tranh Trịnh - Nguyễn đã ngừng hẳn, ai ở nguyên cõi của mình...

Sau cái chết của chúa Trịnh Tạc, năm 1682, Trịnh Căn lên ngôi. Từ đó, ông càng chú trọng hơn tới việc củng cố bộ máy cai trị ở Bắc Hà. Bằng nỗ lực ngoại giao, ông buộc nhà Thanh phải trả lại một số thôn ấp ở vùng biên giới do các quan trấn thủ của họ đã lấn chiếm khi nhà Trịnh mải tập trung vào xung đột với nhà Nguyễn.

Ở ngôi chúa 27 năm, từ 1682 đến 1709, một thời kỳ đất nước tương đối ổn định sau nửa thế kỷ chiến tranh binh lửa với họ Nguyễn ở phương Nam và dẹp yên dư đảng họ Mạc ở phương Bắc. Phan Huy Chú trong “Lịch triều hiến chương loại chí” đã khẳng định vai trò của chúa Trịnh Căn trong việc “chỉnh đốn mối giường, sửa sang nhiều việc, cất dùng các bậc anh tài”.

Lên ngôi và đưa ra nhiều cải cách

Lên ngôi chưa được bao lâu, tháng 3/1683, chúa đã ban các điều răn với mong muốn quan lại biết yêu thương dân. Điều này đã được chúa khẳng định thêm vào tháng 4/1684, với việc xuống chỉ: “Thương yêu Nhân dân là công việc đứng đầu trong mọi việc chính trị. Nhân dân, có người vì quan sở tại hà khắc, bọn quyền quý ức hiếp, có người vì cớ gì đó mà phải phiêu tán đi nơi khác, những hạng người ấy cần được vỗ về thương yêu mới phải”. Rồi ông hạ lệnh cho các ty hiến sát các xứ đi tuần hành dò hỏi, đến cuối năm sẽ theo tình thật của từng loại người làm tờ khải trình bày để tìm phương thức giúp đỡ họ (theo Khâm định Việt sử Thông giám cương mục). Tháng Chạp năm Giáp Tý (1684), Trịnh Căn ra lệnh khảo sát quan coi việc dân và quan coi việc binh, xem ai mở lòng với người dưới thì ban thưởng. Trong đợt này, 16 người được dân ca ngợi nên cũng được nhà chúa khen thưởng.

Tháng 10/1687, chúa sai quan kinh sư đi các nơi xem thế đất, làm guồng nước để tưới ruộng, xét việc khoan giảm và xá thuế. Là vùng đất quý hương, xứ Thanh Hoa có phần được ưu đãi. Chẳng hạn, tháng Giêng năm Ất Hợi (1695), nơi này nước lớn, dẫn đói kém, chúa cho phát 1 vạn quan tiền kho chẩn cấp, lại sai giảm tô thuế, hoãn việc xây cất. Tháng Giêng năm Quý Mùi (1703), hạn hán đói kém, xá thuế thân cho xứ Thanh Hoa...

Chúa Trịnh Căn là người coi trọng học vấn. Ông cho chấn chỉnh và thiết lập lại việc học hành thi cử từ cấp huyện, châu đến Quốc Tử Giám. Trong 27 năm chấp chính, chúa Trịnh Căn đã mở 9 khoa thi Hội và thi Đình; lấy đỗ được 94 tiến sĩ, trong đó có nhiều bậc hiền tài. Đặc biệt, chúa Trịnh Căn còn là người kế tục xứng đáng các triều đại trước trong việc làm Quốc sử. Ông sai Lê Hy và Nguyễn Quý Đức biên soạn sách Bản kỷ tục biên từ vua Lê Huyền Tông (1633-1671) đến vua Lê Gia Tông (1672-1675), tiếp theo phần do Phạm Công Trứ biên soạn từ vua Lê Trang Tông (1533-1548) đến vua Lê Thần Tông (1649-1662) trong bộ sách gọi là Quốc sử thực lục; đồng thời hoàn thành việc khắc in bộ Quốc sử Đại Việt sử ký toàn thư vào năm Chính Hòa thứ 18 đời vua Lê Hy Tông (1697) do sử gia các triều đại quân chủ Việt Nam kế tiếp soạn thuật, từ Lê Văn Hưu, Phan Phu Tiên đến Ngô Sĩ Liên, Vũ Quỳnh, Phạm Công Trứ, Hồ Sĩ Dương, Lê Hy, Nguyễn Quý Đức...

Và là nhà thơ Nôm hàng đầu

Bên cạnh vị thế nhà quân sự, nhà chính trị, nhà văn hóa toàn tài, chúa Trịnh Căn còn là một nhà thơ Nôm hàng đầu thế kỷ XVII với tập “Ngự đề Thiên Hòa doanh bách vịnh” (Trăm bài thơ vịnh ở điện Thiên Hòa), còn gọi là “Khâm định thăng bình bách vịnh”. Thơ của chúa Trịnh Căn làm theo thể Đường luật và Đường luật thất ngôn xen lục ngôn là lời ngợi ca xã hội thái bình, triều đại thịnh trị, công đức tổ tông mở nền cơ nghiệp, thể hiện niềm tự hào của tác giả về văn vật, cảnh quan đất nước và cuộc sống người dân nước Đại Việt. Tập thơ gồm những bài đề vịnh về thiên nhiên, khí hậu, danh lam thắng tích, người và cảnh vật nơi cung vua phủ chúa.

Vốn là người thích tuần du đất nước và đã để lại dấu ấn của mình bằng thi ca đề vịnh. Nhiều danh thắng ngày nay vẫn còn giữ lại bút tích của chúa Trịnh Căn khắc trên gỗ, trên đá. Chẳng hạn như bài “Pháp Vũ tự thi” ở chùa Đậu, Thường Tín, Hà Nội; “Phát Tích sơn tự thi” ở Sài Sơn, Quốc Oai...

Khởi nghiệp từ Trịnh Kiểm đến đời chúa cuối cùng là Trịnh Bồng, trải qua 12 đời, nhà Trịnh đã có gần 250 năm trên vũ đài chính trị từ nửa đầu thế kỷ 16 đến cuối thế kỷ 18. Mỗi một đời chúa có một vai trò lịch sử khác nhau. Với những chính sách trị quốc an dân, chúa Trịnh Căn đã giữ yên Đàng Ngoài trong một thời gian dài tương đối thái bình thịnh trị.

Ở Thanh Hóa, trên vùng đất cổ Biện Thượng (nay thuộc xã Biện Thượng), ngoài Di tích quốc gia Nghè Vẹt, khu di tích lăng mộ Thành Tổ Triết vương Trịnh Tùng, là Di tích quốc gia Phủ Trịnh được xây từ năm 1545 - nơi thờ cúng tổ tiên, đồng thời là hành dinh của nhà Trịnh trên quê nhà Thanh Hóa trong công cuộc “phò Lê, diệt Mạc”. Ngoài ra, ở gần Thái miếu nhà Lê (đền Lê), nhiều tuyến phố mang tên các vị chúa thêm một lần nữa khẳng định vai trò của nhà Trịnh trong một giai đoạn lịch sử phong kiến đặc biệt - “vua trị vì, chúa chấp chính”.

Chi Anh



 {name} - {time}

 Trả lời

{body}
 {name} - {time}
{body}

0 bình luận

Ý kiến của bạn sẽ được biên tập trước khi đăng. Vui lòng gõ tiếng Việt có dấu

Địa phương

Xem thêm TP.Thanh Hóa

Thời tiết

Chia sẻ thông tin với bạn bè!
Tắt [X]