(Baothanhhoa.vn) - Một buổi chiều tháng 4, trên mảnh đất Hoằng Giang, huyện Hoằng Hóa quê hương của ông Cao Xuân Thọ, chúng tôi may mắn được nghe lại câu chuyện về “một thời máu lửa” của người hùng phá bom ngày ấy.

Tin liên quan

Đọc nhiều

Gặp người anh hùng phá bom nổ chậm mở đường cho Chiến dịch Điện Biên Phủ

Một buổi chiều tháng 4, trên mảnh đất Hoằng Giang, huyện Hoằng Hóa quê hương của ông Cao Xuân Thọ, chúng tôi may mắn được nghe lại câu chuyện về “một thời máu lửa” của người hùng phá bom ngày ấy.

Ông cùng đồng đội về thăm lại những kỷ niệm xưa. Ảnh: L.T.A

Ở cái tuổi 93, nhưng trong tâm trí của người lính năm xưa vẫn còn vẹn nguyên một thuở. Từng tấc đất, từng ngả đường, vị trí, hình dáng mỗi quả bom... vẫn hiện lên trong ông một cách rành rọt như những ngày đứng trên đỉnh Cò Nòi.

Cũng như bao thanh niên thời bấy giờ, 18 tuổi chàng trai đất Hà Thành - Cao Xuân Thọ (quê gốc ở huyện Hoằng Hóa, sinh ra và lớn lên ở Hà Nội) xung phong vào đội tự vệ, hai năm sau ông lại tình nguyện lên đường nhập ngũ vào Đại đoàn 308, Trung đoàn 108 phục vụ Chiến dịch Thu – Đông. Tháng 3-1949, ông được cử sang Giang Đông, Trung Quốc học quân báo. Sau khi về nước, ông gia nhập đội TNXP phục vụ Chiến dịch Hòa Bình, Thượng Lào và Điện Biên Phủ.

Ông trở thành đội trưởng đội phá bom Đại đội 404, đội TNXP 40 khi phục vụ cho Chiến dịch Điện Biên Phủ, với nhiệm vụ gác đài quan sát bom ở ngã ba “lửa” Cò Nòi. Đây được xem là huyết mạch nối đường 13 với đường 41, là cửa ngõ tiến vào Tây Bắc, là tuyến đường nối đồng bằng Bắc bộ, Chiến khu Việt Bắc, khu IV với chiến trường Điện Biên. Mọi hoạt động chi viện lực lượng, vận chuyển vũ khí, lương thực... lên chiến trường Điện Biên đều phải qua nút thắt quan trọng này, vì vậy địch đã tìm mọi cách nhằm chặt đứt sự chi viện của quân dân ta với chiến dịch.

Nhớ về những ngày tháng gian khổ, hào hùng ấy, đôi mắt người lính già rực sáng, ông kể: “Tốp máy bay này vừa rời đi, tốp máy bay khác lại kéo đến, chưa phá xong loạt trước, loạt sau lại rải xuống. Bom chồng bom, thi nhau phát nổ, khói lửa ngập trời, đất đá tung tóe, núi rừng rung chuyển, hòa lẫn trong đó không ít máu xương của những người lính mở đường. Chỉ trong một thời gian ngắn, khu vực ngã ba Cò Nòi đã không còn màu xanh, tất cả bị xới lên tơi tả. Số lần đánh phá ngày một dầy đặc hơn, quy mô bán kính ngày một lớn, cứ 13 phút, địch lại ném bom bắn phá một lần. Có ngày chúng ném xuống đây khoảng 300 quả, đủ các loại: Bom phá, bom nổ chậm, bom bươm bướm với trọng lượng khoảng 69 tấn thuốc nổ. Vì vậy, công việc phá bom lúc này là nhiệm vụ hết sức nặng nề, cần kíp mà vô cùng phức tạp”, ông Thọ nhớ lại.

Nói đến đây, khuôn mặt ông chùng xuống, giọng trầm tư: “Ban đầu, địch thả bom phá, cày đất lên rồi thả bom hẹn giờ nổ chậm, cho bom mẹ vào sau đó thả tiếp bom phá xung quanh để xóa mất mục tiêu trên sa bàn theo dõi của ta. Là người vừa chỉ huy, vừa trực tiếp phá, thu gom bom nên tôi luôn nhắc mình phải nhớ chính xác vị trí từng quả bom một, bởi chỉ cần một sơ suất nhỏ có thể phải đổi lấy tính mạng của đồng đội mình”.

Trong đời binh nghiệp của mình, nhớ nhất là lần uống nước mắm để phá bom, đây cũng chính là 1 trong 4 lần “được” đồng đội làm truy điệu sống.

Đó là vào một buổi chiều tháng 3-1954, ông được lệnh về hỗ trợ gỡ bom nổ chậm tại cầu Tà Vài với độ sâu gần 4m. “Lệnh của cấp trên phải phá được bom trước 18h. Đồng chí Trần Văn Cam lặn xuống thăm dò nhưng ngoi lên luôn vì rét quá. Chợt nhớ đến kinh nghiệm của người dân đi biển tôi liền xin chỉ huy vài lít nước mắm nguyên chất rồi nhắm mắt uống liền 3 – 4 bát. Sau một hồi lặn xuống thì phát hiện quả bom nằm trong khe đá. Trước khi lặn, tôi dùng dây rừng buộc vào người rồi thống nhất, lúc nào ốp được bộc phá vào ngòi, đấu dây cháy chậm xong thì giật ba lần để anh em kéo lên bờ. Sau 10 phút kích nổ, một tiếng nổ vang trời, bọt nước tung trắng xóa cao hàng chục mét. Cầu Tà Vài được thông, làm tôi quên mất cái lạnh, quên cả những hiểm nguy mình vừa mới trải qua. Anh em ôm nhau hò reo sung sướng!”. Ông bảo, sau lần ấy, “tôi được tặng Huân chương Chiến công hạng Ba”.

Trải dài suốt cuộc đời phá bom, những lần gặp Bác Hồ là miền ký ức không thể phai mờ trong tâm trí Anh hùng Cao Xuân Thọ. Dù tuổi cao, có chuyện nhớ nhớ, quên quên nhưng khi nhắc đến những kỷ niệm về Bác thì ông Thọ kể lại một cách rành rọt: “Đó là vào tháng 12-1953, tôi cùng đồng đội về Chiến khu Việt Bắc dự Đại hội chiến sĩ thi đua yêu nước. Khi mọi người đang kể cho nhau nghe về những chiến công mới giành được, bỗng có tiếng reo lên: “A, Bác Hồ! Bác Hồ đến!”. Một ông cụ hơi gầy, với đôi mắt sáng, vầng trán cao, râu dài, tóc bạc, mặc bộ quần áo nâu, chân đi dép cao su bước tới trước bao con mắt ngỡ ngàng. Cả căn phòng nín lặng trong giây lát rồi bỗng hò reo sung sướng”, ông Thọ nhớ lại.

Ông bảo, “trước đây được nghe kể về Người, được nghe giọng Người qua chiếc đài của đơn vị, đến khi gặp Bác bằng da, bằng thịt mà thấy vừa run, hồi hộp xen lẫn vui sướng, hạnh phúc. Bác nói với chúng tôi rằng, công việc rất khó khăn, chiến đấu là phải hy sinh xương máu nhưng Bác tin các chú là người đầu tàu gương mẫu nên sẽ vượt qua được những khó khăn, thử thách để đến đích cuối cùng... Rồi Bác nhờ đồng chí Vũ Kỳ gắn Huy hiệu Bác tặng cho ba chúng tôi”.

Những lời nói ân cần, những cái siết tay thân mật của Người, cái cảm giác lần đầu tiên được gặp Bác, được Bác tặng huy hiệu... đã trở thành động lực thôi thúc Anh hùng Cao Xuân Thọ trong suốt quá trình sống và chiến đấu.

Ông Thọ được gặp Bác Hồ lần thứ 2 là sau Chiến dịch Điện Biên Phủ. Trong chiến dịch này, sau bao ngày nằm sương, nếm mật, vừa chỉ huy, vừa trực tiếp phá, thu gom được hơn 100 quả bom các loại ở các trọng điểm ác liệt như: Ngã ba Cò Nòi, đèo Pha Đin, cầu Tà Vài, cầu Hát Lót... Chiến công ấy giúp ông một lần nữa được gặp Bác Hồ.

Đó là vào tháng 11-1954, ông cùng 16 đồng đội về dự Đại hội Chiến sĩ thi đua toàn Đoàn TNXP tại Hà Nội, được đến thăm Trường đại học Tổng hợp Hà Nội. Cũng lần này, ông lại được gặp Bác tại Phủ Chủ tịch.

“Sau lần gặp đầu tiên, tôi không dám nghĩ mình lại được gặp Người thêm một lần nữa. Lần ấy, sợ sẽ quên mất hình dáng, khuôn mặt của Người nên tôi cố gắng nhìn ngắm thật kỹ. Đến lần thứ 2 tôi thấy hạnh phúc vô cùng, bởi lần này chúng tôi được Bác khen là hoàn thành tốt nhiệm vụ”, ông Thọ xúc động nói.

“Bác bảo thành tích về phá bom nổ chậm ở Điện Biên Phủ của các chú là rất tốt. Đồng chí hiệu trưởng đã ca ngợi các chú, các chú là tấm gương để sinh viên được học tập tại chỗ. Nói đến đó, Bác chia quà cho chúng tôi rồi cùng hát bài hát Đoàn kết là sức mạnh”.

Trong lần này, ông được tặng Huân chương Kháng chiến hạng Nhất và tiếp tục được Bác Hồ tặng Huy hiệu của Người.

Sau khi chiến dịch kết thúc, công trường 111 của ông được nhận nhiệm vụ làm đường từ Lai Châu đến biên giới Vân Nam, Trung Quốc. Đây là con đường hoàn toàn mới, núi cao hiểm trở nên cái gì cũng thiếu. Nhớ lời Bác dạy: “thực túc binh cường”, cả đại đội phát động phong trào tăng gia sản xuất.

“Sau khi có thành quả, ban chỉ huy đội đã cử tôi cùng 3 đồng chí nữa vào rừng chặt tre đan 2 cái sọt để đựng 4 củ su hào nặng 10 kg, 1 cây cải sen nặng 12 kg về Hà Nội biếu Bác. Khi đến Phủ Chủ tịch, chúng tôi được đồng chí Vũ Kỳ - thư ký của Bác ra đón. Bác thấy chúng tôi đến thì Bác giơ tay vẫy vẫy, mọi người mừng vui chạy lại ôm Bác. Cái ôm ấm áp ấy làm tôi không thể nào quên được cho tới tận hôm nay”, ông Thọ mắt ngân ngấn nước.

Người rất vui khi nhận quà của đơn vị, rồi khen chúng tôi rằng các chú làm được như thế là rất tốt. Người bảo, “các chú không những bảo vệ, làm đường giỏi, phá bom giỏi mà sản xuất cũng rất giỏi”.

Trong lần gặp này, ông Thọ thay mặt đồng đội nhận Cờ thi đua nhất toàn đoàn Bác tặng cho đơn vị.

Ngày 23-6-1956, ông cùng 11 đồng chí của đội 34 - 40 được về Thủ đô Hà Nội dự Đại hội anh hùng Chiến sĩ thi đua công – nông - binh toàn quốc. Tại đây, ông Thọ cùng đồng đội cũng được Bác Hồ bắt tay và khen ngợi “Bác rất vui khi biết các chú là thanh niên tiêu biểu, là bông hoa của mùa xuân mà đại hội đã bầu ra...”.

“Được gặp Bác Hồ lần thứ 4 này, tôi và đồng chí Nguyễn Tiến Thụ cảm động đến trào nước mắt khi được nắm đôi tay Người, được nhận phần thưởng của Nhà nước tặng như Huân chương Kháng chiến, Giấy khen, Bằng khen và cả Huy hiệu của Người. Trong cuộc đời mỗi con người được một lần gặp Bác đã là hạnh phúc lắm rồi, nhưng tôi lại vinh dự được gặp Bác tới 4 lần. 4 lần gặp Bác thì 3 lần tôi được vinh dự nhận Huy hiệu của Người. Niềm hạnh phúc và tự hào ấy đã theo tôi suốt quãng đời còn lại”, ông Thọ trải lòng.

Với những cống hiến to lớn của ông “vua phá bom”, năm 2014, ông được Chủ tịch nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.

Câu chuyện được ông kể nhiều lần nhưng vị mặn của giọt nước mắt “vui mừng lắm, hạnh phúc lắm” vẫn vẹn nguyên như thuở trước. Dù đã để lại nơi chiến trường 3 đốt sống, 1 viên đạn vẫn còn nằm trong cơ thể, mỗi khi trái gió trở trời, vết thương lại đau nhức nhối. Nhưng khi được hỏi, người lính ấy vẫn cười mà rằng: “Nếu được chọn lại, tôi vẫn chọn nghề... phá bom”.


Lâm Tâm Anh

 {name} - {time}

 Trả lời

{body}
 {name}- {time}
{body}

0 bình luận

Ý kiến của bạn sẽ được biên tập trước khi đăng. Vui lòng gõ tiếng Việt có dấu

Địa phương

Xem thêm TP.Thanh Hóa

Thời tiết

Chia sẻ thông tin với bạn bè!
Tắt [X]