“Sáng bừng” con chữ (Bài 2): Người “gieo chữ” nơi rẻo cao

Giữa núi rừng rẻo cao, tôi đã gặp và ấn tượng sâu sắc với những thầy giáo, cô giáo đã dành trọn thanh xuân cho nghề “gieo chữ”. Sự hy sinh và hành trình đầy gian khó ấy, họ không chỉ dạy con chữ mà còn gieo niềm tin, hy vọng và tình yêu nghề cho thế hệ trẻ vùng cao, nơi mỗi bước chân đến lớp đều là một thử thách. Và tự khi nào, trong hành trình đầy gian nan ấy, mảnh đất vốn lạ lẫm giờ đã thành quê hương. Những khó khăn trở thành nguồn động lực giúp thầy cô gắn bó, tận tụy.

“Sáng bừng” con chữ (Bài 2): Người “gieo chữ” nơi rẻo cao

Giữa núi rừng rẻo cao, tôi đã gặp và ấn tượng sâu sắc với những thầy giáo, cô giáo đã dành trọn thanh xuân cho nghề “gieo chữ”. Sự hy sinh và hành trình đầy gian khó ấy, họ không chỉ dạy con chữ mà còn gieo niềm tin, hy vọng và tình yêu nghề cho thế hệ trẻ vùng cao, nơi mỗi bước chân đến lớp đều là một thử thách. Và tự khi nào, trong hành trình đầy gian nan ấy, mảnh đất vốn lạ lẫm giờ đã thành quê hương. Những khó khăn trở thành nguồn động lực giúp thầy cô gắn bó, tận tụy.

“Sáng bừng” con chữ (Bài 2): Người “gieo chữ” nơi rẻo cao

Thầy Nguyễn Văn Giang (Trường Tiểu học và THCS Mường Lát) với hơn 30 năm gieo chữ.

Chọn yêu thương để trao yêu thương

Con đường men theo triền núi dẫn tôi vào xã Tam Chung những ngày cuối thu. Vạt sương mỏng tan dần trên mái trường ngói đỏ vùng biên, nơi tiếng cười nói của học trò hòa vào cái se sắt lạnh. Từ đây, nhìn xuống bản làng thấp thoáng những mái gianh lẫn giữa mây núi; con đường đất đỏ in dấu chân học trò mỗi sớm mai. Giữa khung cảnh bình dị ấy, Trường Phổ thông Dân tộc bán trú THCS Tam Chung nơi tôi đứng như một chấm son nhỏ giữa núi rừng. Hiệu trưởng của ngôi trường ấy là thầy Phạm Văn Kiên, người đã có hơn 20 năm bám bản, gieo chữ nơi đây.

Nghe thầy kể chuyện, những ngày đầu rời quê hương Thạch Cẩm lên vùng biên công tác, với thầy hành trang mang theo là niềm tin và nhiệt huyết của tuổi hai mươi. Sinh ra ở miền núi, thầy hiểu cái khó với người dân, cái nghèo khiến việc học hành của con em chưa được coi trọng. Bởi thế, khi đặt chân đến xã Trung Lý, một xã biên giới còn nhiều gian khó, thầy chỉ nghĩ đơn giản: “Ở đâu cần mình, ở đó là nơi để cống hiến”. Ngồi trước tôi, thầy vẫn nhớ như in khung cảnh trường lớp thuở đầu: tạm bợ, đường vào bản sỏi đá trơn trượt, học sinh phải lội suối đến lớp, cách nhà cả chục cây số. Học trò nhút nhát, chưa sõi tiếng phổ thông, nhưng những đôi mắt trong veo và nụ cười ngượng nghịu của các em đã tiếp thêm cho thầy sức mạnh để kiên trì. Thiếu giáo viên, thiếu vật chất, đường đến trường xa cách... tất cả khiến giáo dục vùng biên bấy giờ đầy thử thách.

Thế nhưng, bao năm qua, thầy Kiên chưa từng nghĩ đến việc rời đi. Mỗi ngày, thầy tự tay sửa bàn ọp ẹp, sắp xếp lại sách vở, khuyến khích học trò viết những con chữ đầu tiên, dạy các em biết đọc, biết ước mơ. Năm tháng qua đi, cùng đồng nghiệp, thầy đã gây dựng nên một ngôi trường khang trang, nền nếp. Học sinh của thầy năm nào cũng đạt giải trong các kỳ thi, tỷ lệ chuyên cần và tốt nghiệp luôn cao. Không chỉ là người đứng lớp, ở cương vị quản lý hiện tại, thầy còn là tấm gương về sự tận tâm và trách nhiệm. Với hơn 200 học sinh bán trú, thầy trực tiếp chỉ đạo mọi khâu, từ sắp xếp phòng ở, tổ chức bếp ăn, quản lý giờ giấc sinh hoạt, hình thành cho các em thói quen tự lập. Nhờ sự chu đáo ấy, khu nội trú luôn sạch sẽ, ngăn nắp, ấm áp như một mái nhà chung. Khi được hỏi về dự định “về xuôi”, thầy Kiên chỉ cười hiền: “Nhiều năm gắn bó với vùng biên, tôi không còn coi nơi đây là điểm dừng chân công tác mà là quê hương thứ hai của mình. Điều đặc biệt là vợ con cũng đã chuyển lên đây sinh sống. Tôi sẽ ở lại cùng học trò cho đến khi về hưu”.

Nếu câu chuyện của thầy Kiên có sự đồng hành của cả gia đình ở bên thì với thầy Nguyễn Văn Giang, một trong 13 sinh viên Trường Cao đẳng Sư phạm Thanh Hóa tình nguyện lên miền biên giới xứ Thanh năm 1990 lại ngần ấy năm xa nhà, xa vợ con. Hơn ba mươi năm trước, con đường ngược xã Quang Chiểu chỉ toàn núi đá, sương mù và dốc dựng. Thầy Giang nhớ, từ trung tâm huyện Quan Hóa cũ để lên được đến bản, xã, thầy phải cuốc bộ hơn một trăm cây số. Trường học khi ấy đơn sơ bên suối Xim cuồn cuộn, lớp học chỉ chừng mươi học sinh, có em gần bằng tuổi thầy, có em còn chưa sõi tiếng phổ thông.

Những tháng ngày gian khó nơi vùng biên, thầy Giang từng ốm đến kiệt sức. Vậy mà gùi ngô, đùm khoai, con cá suối nhỏ bé của học trò mang đến lại khiến thầy khỏe lại. Thương trò, thầy bám bản, bám lớp. Sau mỗi kỳ nghỉ, thầy cùng đồng nghiệp lại lội suối, trèo đèo, gõ cửa từng nhà vận động học sinh đi học. Có em chỉ cần nghe tin thầy Giang đến là chạy vội về trường; có em, thầy phải tìm đến hai, ba lần mới gặp vì cha mẹ giữ lại trên nương. Cũng có lúc, thầy nghĩ đến việc chuyển công tác. Nhà thầy ở xã vùng biển, thuộc huyện Nga Sơn cũ, xa hàng trăm cây số. Lá đơn xin chuyển về xuôi thầy vẫn giữ, cùng bức thư từ vợ thầy. Vợ thầy Giang cũng là cô giáo, với dòng chữ khiến thầy day dứt mãi: “Anh cứ yên tâm công tác. Đó không chỉ là tình yêu, mà còn là trách nhiệm. Em sẽ chăm lo tốt cho các con ở nhà”. Chỉ một dòng thư ấy đã giữ chân thầy ở lại, hơn 30 năm bám biên, bám lớp, lặng lẽ “gieo chữ” giữa đại ngàn mây gió.

Giờ đây, niềm vui lớn nhất của thầy không phải danh hiệu hay phần thưởng, mà là được nhìn thấy học trò trưởng thành. Những đứa trẻ gầy gò, đen nhẻm ngày nào nay đã có người là kỹ sư, bác sĩ, cán bộ xã, có người lại trở thành đồng nghiệp, tiếp tục nối dài hành trình gieo chữ. “Sự thành công của học trò là lời khẳng định lựa chọn năm ấy của tôi là đúng”, thầy nói, nụ cười ấm áp ánh lên trong mắt lúc chiều muộn.

Vượt nghịch cảnh, gieo niềm tin

Nếu các thầy là tấm gương của sự bền bỉ và tận tụy thì lớp trẻ hôm nay cũng đang nỗ lực bám lớp, bám bản, giữ lửa cho con chữ nơi rẻo cao. Tôi ghé Trường Mầm non Yên Thắng vào một buổi sớm tinh mơ, khi sương vẫn còn phủ mờ triền đồi, chứng kiến nhiều cô giáo trẻ miền xuôi đối mặt với những khó khăn nếu không tận mắt cũng khó hình dung. Sáng, lớp học vang tiếng cười, tiếng gọi tên trẻ; tối, căn phòng học lại trở thành nơi sinh hoạt, ăn, ngủ của gần 20 cô giáo. Một khung cảnh khiến tôi chùng lòng. Cô Lê Thị Phượng, Hiệu trưởng nhà trường, thủ thỉ: “Ở điểm trường vùng cao còn vô vàn khó khăn này, ít khi có khách lên thăm”. Quan sát căn phòng của cô, tôi nhận ra phần nào những vất vả hằng ngày. Ngoài bộ bàn ghế tiếp khách, căn phòng hiệu bộ này còn chứa đồ đạc, dụng cụ giảng dạy. Vừa là văn phòng, vừa là nơi cất giữ nhịp sống của nhà trường.

Nhà trường có 5 khu lẻ rải rác giữa các bản. Với hơn 400 trẻ và 49 cán bộ, giáo viên, trong đó có hơn 20 cô từ miền xuôi lên công tác phải ở lại. Hiện tại, nhà trường đang đối mặt với rất nhiều khó khăn, từ thiếu phòng học, cơ sở xuống cấp, nơi ăn ở hạn chế. Nếu như trước kia, một số ra ở trọ cùng bà con dân bản, nhưng vì phong tục, tập quán và nhiều lý do khác, giờ đây tất cả đều ở lại trường, góp gạo nấu cơm chung. Khu chính có 12 cô, khu Vần 6 cô, khu Tráng 2 cô, khu Vặn 5 cô. Khó khăn nhất là ở các khu lẻ, để mua sắm lương thực, các cô phải đi bộ hàng cây số đường đồi núi cheo leo. Nơi ngủ là những chiếc đệm, cái chõng của các con, phòng học gánh thêm chức năng là nơi ở.

Cô Phạm Thị Tâm Thương, sinh năm 1986, kể: “Nhà tôi ở thành phố, chồng thường xuyên vắng nhà, ông bà nội tuổi cao, nên tôi đưa con lên đây vừa tiện chăm sóc, vừa tiện công việc”. Hơn 15 năm gắn bó, cô coi nghề giáo là cái duyên, là tình yêu cô dành cho trẻ nhỏ và mảnh đất còn nhiều khó khăn. Mỗi ngày nhìn học sinh ríu rít, tự tin hơn, cô thấy mọi nỗ lực đều xứng đáng. Con trai cô, Phạm Minh Tài, đã theo mẹ lên Yên Thắng từ lúc 4 tuổi. Hơn 10 năm xa gia đình, cháu vẫn ngoan, hồn nhiên, khiến cô quên hết mệt nhọc, chỉ còn niềm vui với công việc. Theo cô, công tác ở xã vùng cao giúp cô thấu hiểu hơn giá trị của nghề. Mỗi ngày đến lớp là niềm vui, được nhìn các con ríu rít chào cô, thấy các con tự tin hơn, chính là phần thưởng quý giá nhất. Trẻ em vùng cao còn nhiều thiệt thòi, nhưng các con rất ngoan, tình cảm. Chỉ cần một nụ cười của các con thôi cũng đủ khiến mình quên hết mọi vất vả.

Với lãnh đạo địa phương, ông Vũ Thế Vinh, Chủ tịch UBND xã Yên Thắng, rất trăn trở, ái ngại khi các cô phải ăn ở tại trường, tại lớp mà chưa có nhà công vụ. Nhưng với nguồn lực hạn chế, xã gần như “lực bất tòng tâm”. Hy vọng dự án nhà công vụ cho các cô sẽ sớm được triển khai, để những người “gieo chữ” nơi vùng cao như Yên Thắng có thể an tâm dạy học, sống trọn vẹn với nghề. Cô Lê Thị Phượng, Hiệu trưởng nhà trường tin tưởng rằng: Mới đây thôi, các cô được chứng kiến Thủ tướng Chính phủ về dự khởi công xây dựng Trường Nội trú liên cấp tại xã Yên Khương giáp ranh, ai cũng thấy phấn khởi. Những câu chuyện về chỗ ăn, chỗ ở, học tập cho học sinh vùng cao như được tiếp thêm hy vọng. Các cô lại nhắn nhủ nhau: cơ sở hạ tầng giáo dục đang ngày càng được quan tâm, tin rằng trường mầm non nơi các cô giảng dạy rồi cũng sẽ sớm được đầu tư tương xứng. Niềm tin giản dị ấy, nhưng chứa đựng bao quyết tâm, như tiếp thêm sức mạnh để các cô tiếp tục bám lớp, bám bản, lặng lẽ gieo chữ giữa núi rừng xa xôi.

Bài và ảnh: Đình Giang

Bình luận

Xin vui lòng gõ tiếng Việt có dấu

Tin cùng chuyên mục

“Tôn sư trọng đạo” xưa và nay

“Tôn sư trọng đạo” xưa và nay

Giáo dục
(Baothanhhoa.vn) - Cùng với lịch sử ngàn năm dựng nước và giữ nước, truyền thống hiếu học với đạo thầy - trò là một “hằng số văn hóa” có giá trị muôn đời. Dân tộc Việt Nam có truyền thống hiếu học, dù ở trong giai đoạn nào của đất nước, mọi người dân Việt đều coi...
“Sáng bừng” con chữ (Bài 1): Lên bờ...

“Sáng bừng” con chữ (Bài 1): Lên bờ...

Giáo dục
(Baothanhhoa.vn) - Nhà không còn là thuyền. Nhà giờ đã bằng bê tông, cốt thép... Trước bước xuống thuyền là nước, giờ chân đã chạm đất. Đường đến trường, đường về nhà đã rộng thênh thang...
Miệt mài gieo chữ nơi “cổng trời” Trung Lý

Miệt mài gieo chữ nơi “cổng trời” Trung Lý

Người tốt
(Baothanhhoa.vn) - Chung một lý tưởng "gieo chữ" cho con em vùng khó, nhiều thầy cô giáo đã rời miền xuôi lên "cổng trời" thuộc địa bàn xã Trung Lý cùng đứng lớp trong những phòng học tạm, cùng vượt những con dốc trơn trượt, đá lở để đến với học trò. Những ngày sát...
Giáo dục bằng yêu thương và niềm tin

Giáo dục bằng yêu thương và niềm tin

Giáo dục
(Baothanhhoa.vn) - Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có sự chuẩn bị căn bản trong lộ trình chính sách trước khi áp dụng Thông tư 19 về khen thưởng và kỷ luật học sinh. Điều cần nhất lúc này đó là triển khai bài bản hệ thống các thông tư, hướng dẫn về các vị trí việc làm công...
Chứng nhận tín nhiệm mạng
Việt Long Phần mềm tòa soạn
hội tụ thông minh