(Baothanhhoa.vn) - Khởi đầu là Phù Nghĩa hầu Lương Văn Chánh cùng bao bậc tiền nhân thuở “lưng kiếm túi thơ” khẩn hoang mở cõi cho đến thời hiện đại, nhất là trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cứu nước đã có nhiều người xứ Thanh gắn bó, thành danh ở đất Phú Yên, trong đó nổi bật là các nhà thơ: Trần Mai Ninh, Hữu Loan, Trần Vũ Mai...

Người xứ Thanh vang danh đất Phú Yên

Khởi đầu là Phù Nghĩa hầu Lương Văn Chánh cùng bao bậc tiền nhân thuở “lưng kiếm túi thơ” khẩn hoang mở cõi cho đến thời hiện đại, nhất là trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cứu nước đã có nhiều người xứ Thanh gắn bó, thành danh ở đất Phú Yên, trong đó nổi bật là các nhà thơ: Trần Mai Ninh, Hữu Loan, Trần Vũ Mai...

Người xứ Thanh vang danh đất Phú YênCác nhà thơ Hữu Loan, Trần Vũ Mai, Trần Mai Ninh (từ trái sang).

Trên hành trình Nam tiến của cha ông, người xứ Thanh các thế hệ có mặt hầu khắp các tỉnh, thành từ Thuận Hóa đến Mũi Cà Mau và các đảo khơi xa. Theo bước chân của chúa Nguyễn Hoàng từ lời sấm của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm: “Hoành Sơn nhất đái/ Vạn đại dung thân”, người xứ Thanh đã đóng góp công lao to lớn, ghi dấu ấn không phai mờ trong lịch sử hình thành “giang sơn gấm vóc”. Một trong những nhân vật tiêu biểu nhất là Phù Nghĩa hầu Lương Văn Chánh, vị Thành hoàng của đất Phú Yên.

Huyền thoại Thành hoàng đất Phú

Nằm ven hai bên bờ hạ nguồn sông Ba, tức sông Đà Rằng, cánh đồng Tuy Hòa của Phú Yên lớn nhất vùng duyên hải miền Trung. Cánh đồng được bao bọc bởi ba mặt núi và một mặt biển với dòng sông Đà Rằng lượn lờ ở giữa từ Tây Nguyên đổ xuống. Tôi lớn lên bằng hạt gạo cánh đồng Tuy Hòa. Những đêm bên ngọn đèn dầu, cha tôi cùng các lão nông hay quây quần uống trà hút thuốc bàn chuyện cày cấy gieo trồng gặt hái. Và cả những câu chuyện dân gian ly kỳ. Như vào những đêm mưa gió thường xuất hiện một vị râu dài mặc đồ trắng phi ngựa trắng lướt qua những cánh đồng. Có người bảo đó là Thần nông. Người khác nói rằng Thành hoàng Lương Văn Chánh đi thăm đồng. Rồi nhiều chi tiết lạ lùng đầy quyến rũ khác được truyền tụng về nhân vật huyền thoại mà người dân Phú Yên tôn kính thờ phụng.

Đã có những cuộc hội thảo, điền dã, tranh luận nhưng cho đến nay vẫn chưa xác định rõ ngày tháng năm sinh của danh nhân Lương Văn Chánh. Các nhà nghiên cứu chỉ ước đoán ông sinh vào khoảng cuối thập niên 30 thế kỷ XVI, nguyên quán ở xã Phụng Lịch về sau đổi là Phụng Ngô thuộc huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Ông làm quan dưới thời Lê Trung hưng, giữ chức Thiên vũ vệ Đô chỉ huy sứ, tước Phù Nghĩa hầu. Sau đó ông theo chúa Nguyễn Hoàng vào Nam, trú tại Phụng Các về sau đổi thành Phụng Tường, huyện Tuy Hòa, nay thuộc xã Hòa Trị, huyện Phú Hòa, tỉnh Phú Yên. Ông lập gia đình với bà Lê Thị Loan người Phú Yên và sinh con đẻ cháu tạo nên dòng họ Lương đông đảo, lớn mạnh ở đây.

Từ năm 1578, Lương Văn Chánh nhận lệnh của chúa Nguyễn Hoàng chỉ huy quân sĩ đánh lấy Thành Hồ của Champa ở phía Bắc sông Ba, sau đó chiêu mộ dân khẩn hoang từ Cù Mông đến Đà Diễn và đèo Cả. Đến năm 1593-1594, ông tháp tùng chúa Nguyễn Hoàng ra Bắc đánh dẹp phiến loạn, lập được nhiều chiến công ở Sơn Nam và Hải Dương, được đặc tiến Phụ quốc Thượng tướng quân. Quay vào Nam Trung bộ, ông trở thành Trấn Biên quan đứng đầu vùng đất biên cương Phú Yên từ năm 1597-1611. Dưới sự chỉ huy trực tiếp của Phù Nghĩa hầu Lương Văn Chánh, Phú Yên phát triển không ngừng, cư dân ngày càng đông, làng mạc mọc lên rộng khắp từ miền xuôi đến miền núi, nhất là ven sông ven biển.

Ngày 19/9 năm Tân Hợi (1611), Phù Nghĩa hầu Lương Văn Chánh qua đời tại Phú Yên. Tưởng nhớ công lao to lớn của ông, các chúa Nguyễn và các vua nhà Nguyễn đều ban sắc gia phong ông là Thượng đẳng thần, còn Nhân dân Phú Yên tôn ông là Thành hoàng, xây đền đời đời thờ phụng. Phù Nghĩa hầu Lương Văn Chánh là một trong những nhân vật lịch sử hiếm hoi ở nước ta được cả một tỉnh tôn thờ là Thành hoàng!

Nhà Phú Yên học Trần Sĩ Huệ nhìn nhận: “Sau chiến thắng Thành Hồ năm 1578, trận phản công vào năm 1579 và sau đợt di dân ồ ạt năm 1597, chắc chắn người Việt mang vào đây một lực lượng hùng hậu với cả một khí thế hào hứng, quyết tâm tìm sự no ấm trên vùng đất mới. Nhờ công lao xây dựng của Lương Văn Chánh trong 14 năm bằng những thành tựu thực tế đáng kể mà một trang sử mới được viết nên: đơn vị hành chính chính thức thành lập vùng đất hoang hóa ngày nào, nay đã có tên gọi phủ Phú Yên gồm hai huyện Đồng Xuân và Tuy Hòa. Đến thời Minh Mạng, nhà Nguyễn, ranh giới hai huyện còn ở sông Đà Rằng (có thể là ranh giới lúc đầu tại đây). Lương Văn Chánh vừa là tướng cầm quân, vừa là nhà cai trị có tài, chỉ huy tổ chức điều hành, có đầy đủ cương và nhu nên không có mầm mống chống đối nào”.

Đất thiêng chắp cánh

cho thi ca người xứ Thanh

Có lẽ từ tình yêu, công lao to lớn của Thượng đẳng thần Lương Văn Chánh cùng bao bậc tiền nhân thuở khẩn hoang mở cõi mà hậu duệ xứ Thanh các thế hệ đã có nhiều người xuôi về sống, chiến đấu và làm việc trên nhiều lĩnh vực ở Phú Yên. Do đặc thù của văn học mà nhiều tên tuổi người xứ Thanh đã thành danh nổi bật trên đất này, tiêu biểu là các nhà thơ Trần Mai Ninh, Hữu Loan, Trần Vũ Mai...

Được biết đến nhiều với tư cách nhà thơ, tác giả của hai bài thơ Nhớ máu, Tình sông núi bất tử, nhưng Trần Mai Ninh (1917-1948) trước hết là chiến sĩ cách mạng từng vào tù ra khám, đồng thời ông còn là cây bút văn xuôi, báo chí tài năng, sắc sảo và là họa sĩ có nhiều tranh minh họa ấn tượng. Khi vào công tác ở Nam Trung bộ, ông từng phụ trách báo Cứu Quốc Khu 6, rồi đứng đầu gây dựng báo Phấn đấu, tiền thân của báo Phú Yên ngày nay. Nhiều lúc tôi nghĩ vui rằng nếu như xứ Thanh quê hương không lấy tên ông đặt cho giải thưởng báo chí của tỉnh thì đất Phú Yên có thể đã có giải thưởng báo chí mang tên Trần Mai Ninh, vị tổng biên tập đầu tiên của báo Phú Yên. Một sự vinh danh xứng đáng!

Tên khai sinh là Nguyễn Thường Khanh, còn có bút danh Hồng Diện, TK, Mạc Đỗ, Tố Chi,... nhưng cái tên Trần Mai Ninh mới thực sự “đóng đinh” ông vào văn học sử. Theo lời em gái ông là bác sĩ Nguyễn Thanh Thanh, bút danh Trần Mai Ninh xuất phát từ tên hai người chị em họ là Mai và Ninh mà ông rất quý mến. Nhưng còn họ Trần? Trong một lần nhà văn, nhà báo Xuân Ba quê Thanh Hóa từ Hà Nội bay vào cùng tôi lang thang khắp Phú Yên, ông cho tôi xem bài viết về một nhân vật xứ Thanh là ông Tham Đàm – “Người phát lộ thêm về Trần Mai Ninh” qua cuốn sách Gửi lại thời gian. Trong đó Xuân Ba có đoạn viết:

“Thật thú vị khi biết thêm Trần Mai Ninh là con một ông tham trong hệ thống chính quyền thực dân. Nhà khá giả. Trần Mai Ninh đang học dở ban tú tài thì trốn cha mẹ, trốn nhà theo cách mạng. Nguyễn Thường Khanh từng bị bố mẹ từ. Và nữa, từ cái tên Nguyễn Thường Khanh đến Trần Mai Ninh là cả một sự trúc trắc. Chả là hai lần chàng trai ấy bị người yêu... bỏ! Cô người yêu đầu tên Mai. Và một cô nữa tên Ninh. Còn họ Trần là nói chàng nghèo trần như nhộng chả có chút vốn liếng của cải gì!”.

Thật ngạc nhiên. Tôi hỏi có đúng như vậy không, Xuân Ba nở nụ người bí hiểm. Một nụ cười rất... Hoa Thanh Quế! Có thể chưa hoàn toàn xác tín nhưng chúng ta có thêm một giai thoại thú vị về bút danh Trần Mai Ninh, một con người mà chỉ vỏn vẹn mười năm vừa hoạt động cách mạng vừa cầm bút đã tạo dựng nên một sự nghiệp văn học nghệ thuật phong phú. Càng đọc càng tìm hiểu về Trần Mai Ninh mới thấy ông là một nhân cách trí thức lớn, một tài năng xuất chúng, một con người có tầm nhìn và khả năng dự cảm tương lai. Chỉ với hai bài thơ Nhớ máu, Tình sông núi, Trần Mai Ninh là một trong những nhà thơ tiên phong cách tân thơ hiện đại mà sức ảnh hưởng còn mãi về sau với cảm hứng cuồn cuộn.

Chính cái gió Tuy Hòa trong bài thơ Nhớ máu của Trần Mai Ninh đã làm say mê tôi từ khi còn là học sinh chuyên văn Trường THPT Nguyễn Huệ ở Phú Yên. Khi chuyển vào Nha Trang tiếp tục học thì cái gió và cái chết đau đớn của nhà thơ Trần Mai Ninh ở thành phố biển này càng ám ảnh tôi. Và rồi, cũng chính cái gió của Trần Mai Ninh lẫn Trần Vũ Mai là một trong những nguồn cảm hứng để tôi viết nên trường ca Bước gió truyền kỳ để lần đầu tiên ngọn gió trở thành nhân vật chính xuyên suốt trong một trường ca của thơ Việt.

Không có nhiều thời gian gắn bó với Phú Yên như nhà thơ Trần Mai Ninh, nhưng nhà thơ Hữu Loan cũng người xứ Thanh đã kịp viết nên kiệt tác Đèo Cả khi đến với vùng đất tự do này trong chín năm kháng chiến chống Pháp. Trong một lần gặp gỡ ở TP Hồ Chí Minh, nhà thơ Hữu Loan rất vui mừng khi biết tôi là người Phú Yên. Ông bảo rằng mình còn mắc nợ đất Phú và mong có nhiều dịp về thăm để “Lặn lội bao rừng suối/ ăn với nhau/ bữa heo rừng/ công thui/ chấm muối” (Đèo Cả).

Nhà thơ Hữu Loan cho biết bài thơ Đèo Cả ra đời sau một chuyến đi vào thăm ngọn đèo này khi ông đang làm chủ bút báo Chiến Sĩ của Quân khu IV, Trưởng Ban Tuyên huấn Sư đoàn 304. Giữa khí thế hừng hực của những đoàn quân Nam tiến chi viện cho Nam bộ, Nam Trung bộ, Hữu Loan muốn tận mắt xem phòng tuyến đèo Cả ra sao. Và đúng như nhà nghiên cứu Chế Diễm Trâm có ghi lại trong bài thơ Đèo Cả của Hữu Loan: “Nhà thơ Hữu Loan khao khát vào đèo Cả thâm nhập thực tế. Một người bạn là Trung đoàn trưởng Trung đoàn 79 cấp cho ông một con ngựa. Ngựa thuần người khác đã dùng hết, chỉ còn con ngựa đực bất kham. Vốn có “máu tráng sĩ”, Hữu Loan nhận cưỡi. Vừa ra khỏi thị xã Tuy Hòa, gặp ngựa cái, chú ngựa bắt đầu sinh sự. Hữu Loan vẫn ghìm cương thúc ngựa đi được nhưng bị nó trả thù, cứ nhè những gốc cây cà người cưỡi vào. Có lần bị nó tông mạnh vào cành cây, áo móc vào cành, treo người ngang vách đá, “tráng sĩ” phải đu cành mới thoát được”.

Nếu như bài thơ Màu tím hoa sim đầy xúc động được phổ nhạc và lan tỏa mạnh mẽ, đưa tên tuổi Hữu Loan bay xa, thì bài thơ Đèo Cả đặc sắc về thi pháp là tác phẩm quan trọng nhất đưa Hữu Loan lên tầm cao của một trong những nhà thơ cách tân hàng đầu nền thi ca Việt Nam hiện đại. Đặc biệt, bài thơ Đèo Cả của Hữu Loan hợp cùng Nhớ máu của Trần Mai Ninh và Hải Phòng 19/11/1946 của Trần Huyền Trân được xem như “tam tuyệt thi” mở đầu nền thi ca chống Pháp, khi cả ba bài đều sáng tác cùng năm 1946. Nghĩa là trong “tam tuyệt thi” ấy có tới hai bài thơ của hai tác giả người Thanh Hóa lại đều sáng tác về và ở Phú Yên.

“Đèo Cả! Đèo Cả! núi cao ngất mây trời Ai Lao sầu đại dương dặm về heo hút Đá Bia mù sương”.

Từ ngôi nhà tuổi thơ tôi nhìn về phía đông hiện lên sừng sững hòn Đá Bia giữa dãy Thạch Bi Sơn cao ngất với đèo Cả ngoằn ngoèo chập chùng. Đây là ranh giới tự nhiên của hai tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa. Đây là vùng trấn biên, ranh giới một thời giữa Đại Việt và Champa. Đây cũng là ranh giới, phòng tuyến giữa vùng tự do Liên khu 5 với vùng quân Pháp tạm chiếm ở phía trong đèo Cả. Và những câu thơ về đèo Cả của Hữu Loan cũng như cái gió Tuy Hòa của Trần Mai Ninh, cái gió La Hai và cái gió Cực Nam của Trần Vũ Mai đã trở thành niềm tự hào, vang động trong tôi từ thời niên thiếu cho đến khi bước chân phiêu bạt nhớ về cố hương. Dấu ấn của những con người tài năng xứ Thanh vang danh đất Phú Yên mãi mãi là một phần di sản quý giá trong quá trình hình thành và phát triển Phú Yên.

Nếu như trong chống Pháp có hai nhà thơ Trần Mai Ninh và Hữu Loan thì trong chống Mỹ và sau ngày đất nước thống nhất có nhà thơ Trần Vũ Mai là người gốc Thanh Hóa gắn bó với Phú Yên. Từ những ngày chiến tranh ác liệt ông đã bí mật vào tận làng Phước Hậu dưới chân núi Chóp Chài ngoại ô thị xã Tuy Hòa để hoạt động và viết ở làng Phước Hậu - một trong những trường ca rất hay về cuộc chiến tranh chống Mỹ.

PHAN HOÀNG



 {name} - {time}

 Trả lời

{body}
 {name} - {time}
{body}

0 bình luận

Ý kiến của bạn sẽ được biên tập trước khi đăng. Vui lòng gõ tiếng Việt có dấu

Địa phương

Xem thêm TP.Thanh Hóa

Thời tiết

Chia sẻ thông tin với bạn bè!
Tắt [X]