(Baothanhhoa.vn) - Chủ tịch Hồ Chí Minh - Người đặt nền móng cho nền báo chí cách mạng Việt Nam, cũng đồng thời là một nhà báo xuất sắc, với những trang viết vừa sục sôi tính chiến đấu, vừa thấm đẫm tinh thần nhân văn. Mỗi bài báo, mỗi trang viết của Người luôn luôn bám sát tôn chỉ: Báo chí phải là tiếng nói của chính nghĩa và mỗi bài báo là một “tờ hịch cách mạng”.

Mỗi bài báo là một “tờ hịch cách mạng”

Chủ tịch Hồ Chí Minh - Người đặt nền móng cho nền báo chí cách mạng Việt Nam, cũng đồng thời là một nhà báo xuất sắc, với những trang viết vừa sục sôi tính chiến đấu, vừa thấm đẫm tinh thần nhân văn. Mỗi bài báo, mỗi trang viết của Người luôn luôn bám sát tôn chỉ: Báo chí phải là tiếng nói của chính nghĩa và mỗi bài báo là một “tờ hịch cách mạng”.

Mỗi bài báo là một “tờ hịch cách mạng”

Báo Le Paria (Người cùng khổ) - Cơ quan ngôn luận của Hội Liên hiệp các dân tộc thuộc địa, xuất bản những năm 1922-1926, do Nguyễn Ái Quốc và một số nhà cách mạng sáng lập. Nguyễn Ái Quốc là Chủ nhiệm kiêm chủ bút báo. Ảnh: Tư liệu

Là người hiểu hơn ai hết sức mạnh của báo chí đối với sự nghiệp đấu tranh cách mạng, nên ngay từ những năm đầu ra đi tìm đường cứu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lấy ngòi bút làm vũ khí tranh đấu cho chính nghĩa, cho lẽ phải, cho quyền của các dân tộc bị áp bức. Để rồi mỗi bài báo, với Người phải như một “tờ hịch cách mạng” có khả năng lôi cuốn các tầng lớp bị áp bức và nhân loại tiến bộ trên thế giới vào cuộc tranh đấu cho lẽ phải, cho các giá trị con người. Trong bài nói chuyện tại Đại hội lần thứ 2, Hội Nhà báo Việt Nam, Người chỉ rõ: “Về nội dung viết mà các cô, các chú gọi là “đề tài” thì tất cả những bài Bác viết chỉ có một “đề tài” là chống thực dân đế quốc, chống phong kiến địa chủ, tuyên truyền độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Duyên nợ của Bác đối với báo chí là như vậy đó”.

Ngay từ buổi đầu cầm bút, nhiều bài viết của Người đã phơi bày bản chất của cái gọi là công cuộc “khai hóa văn minh” mà người Pháp đang áp đặt lên các xứ thuộc địa, trong đó có Đông Dương. Đồng thời, vạch trần sự tăm tối của xã hội thuộc địa và đời sống người dân bản xứ dưới chế độ cai trị của “mẫu quốc”. Chẳng hạn, trong bài viết nói về Đông Dương, Người đã chỉ ra sự thật về cái gọi là “tự do”, “văn minh” mà người dân xứ thuộc địa đang được “mẫu quốc” ban cho: “Sự thật là người Đông Dương không có một phương tiện hành động và học tập nào hết. Báo chí, hội họp, lập hội, đi lại đều bị cấm... Việc có những báo hoặc tạp chí mang tư tưởng tiến bộ một chút hoặc có một tờ báo của giai cấp công nhân Pháp là một tội nặng. Rượu cồn và thuốc phiện cùng báo chí phản động của bọn cầm quyền bổ sung cho cái công cuộc ngu dân của chính phủ. Máy chém và nhà tù làm nốt phần còn lại”.

Vạch trần cái hiện thực tàn khốc và tăm tối của xã hội thuộc địa, mục đích Người hướng đến không chỉ là lên án chế độ cai trị của thực dân Pháp, hay kêu gọi sự đồng tình của những người Pháp tiến bộ; mà còn nhằm khẳng định tinh thần đấu tranh tưởng chừng đã bị dìm chết của người dân Đông Dương: “Bị đầu độc cả về tinh thần lẫn về thể xác, bị bịt mồm và bị giam hãm, người ta có thể tưởng rằng cái bầy người ấy cứ mãi mãi bị dùng làm đồ để tế cái ông thần tư bản, rằng bầy người đó không sống nữa, không suy nghĩ nữa và là vô dụng trong việc cải tạo xã hội. Không: người Đông Dương không chết, người Đông Dương vẫn sống, sống mãi mãi. Sự đầu độc có hệ thống của bọn tư bản thực dân không thể làm tê liệt sức sống, càng không thể làm tê liệt tư tưởng cách mạng của người Đông Dương. Luồng gió từ nước Nga thợ thuyền, từ Trung Quốc cách mạng hoặc từ Ấn Độ chiến đấu đang thổi đến giải độc cho người Đông Dương. Người Đông Dương không được học, đúng thế, bằng sách vở và bằng diễn văn, nhưng người Đông Dương nhận sự giáo dục bằng cách khác. Đau khổ, nghèo đói và sự đàn áp tàn bạo là những người thầy duy nhất của họ”.

Trong một bài viết khác, Người đã vạch ra những chân lý tưởng chừng giản đơn nhưng có tính quyết định đến sự nghiệp đấu tranh cách mạng. Đó là “Phàm làm việc gì cũng vậy, bất kỳ lớn bé, bất kỳ khó dễ, nếu không ra sức thì chắc không thành công. Tục ngữ Tàu có câu: “Sư tử bắt thỏ tất dùng hết sức”. Sư tử mạnh biết chừng nào, nếu bắt thỏ thì có khó gì, thế mà còn phải dùng hết sức, huống gì làm việc to tát như việc giải phóng gông cùm nô lệ cho đồng bào, cho nhân loại, nếu không hết sức thì làm sao được. Lại nhiều người thấy khó thì ngã lòng, không hiểu rằng “nước chảy đá mòn” và “có công mài sắt có ngày nên kim”. Việc gì khó cho mấy, quyết tâm làm thì làm chắc được, ít người làm không nổi, nhiều người đồng tâm hiệp lực mà làm thì phải nổi. Đời này làm chưa xong thì đời sau nối theo làm thì phải xong. Muốn đồng tâm hiệp lực, muốn bền gan thì trước ai ai cũng phải hiểu rõ vì sao mà phải làm, vì sao mà không làm không được, vì sao mà ai ai cũng phải gánh một vai, vì sao phải làm ngay không nên người này ngồi chờ người khác. Có như thế mục đích mới đồng; mục đích có đồng, chí mới đồng; chí có đồng, tâm mới đồng; tâm đã đồng, lại phải biết cách làm thì làm mới chóng”...

Có thể nói, ngòi bút báo chí Hồ Chí Minh là vô cùng sắc sảo. Nó ví như con dao mỏng nhưng sắc lẹm, có thể cứa sâu vào những thớ hiện thực, để phanh phui và bóc trần ra những u nhọt tội ác của chế độ áp bức thực dân và cả những khổ đau tận cùng của thân phận nô lệ. Từ đó, khơi dậy ngọn lửa căm hờn và đốt lên nhiệt huyết tranh đấu trong những con người cùng khổ. Cũng bởi hiểu rõ sức mạnh của báo chí nên Người đã chỉ rõ: “Báo chí của ta thì cần phải phục vụ Nhân dân lao động, phục vụ chủ nghĩa xã hội, phục vụ cho đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà, cho hòa bình thế giới. Chính vì thế cho nên, tất cả những người làm báo (người viết, người in, người sửa bài, người phát hành, v.v...) phải có lập trường chính trị vững chắc. Chính trị phải làm chủ. Đường lối chính trị đúng thì những việc khác mới đúng được. Cho nên các báo chí của ta đều phải có đường lối chính trị đúng. Báo chí ta không phải để cho một số ít người xem, mà để phục vụ Nhân dân, để tuyên truyền giải thích đường lối, chính sách của Đảng và Chính phủ, cho nên phải có tính chất quần chúng và tinh thần chiến đấu”.

Với Hồ Chí Minh, lý tưởng cao đẹp nhất của nhà báo là phải dùng ngòi bút phục vụ cho chính nghĩa. Cho nên, Người đã căn dặn các nhà báo: “Ngòi bút các bạn cũng là những vũ khí sắc bén trong sự nghiệp phò chính trừ tà”. Theo Người, kẻ thù đế quốc, kể cả Pháp và Mỹ, đều sử dụng chiến tranh tuyên truyền bên cạnh chiến tranh quân sự: “Địch tuyên truyền xảo quyệt và bền bỉ, ngày này đến ngày khác, năm này đến năm khác, “giọt nước rỏ lâu, đá cũng mòn”. Cho nên không khỏi có một số đồng bào bị địch tuyên truyền mãi mà hoang mang. Trách nhiệm của mỗi cán bộ, của mỗi người yêu nước, là tìm mọi cơ hội, dùng mọi hình thức, để đập tan tuyên truyền giả dối và thâm độc của địch. “Chúng ta phải đánh thắng địch về mặt tuyên truyền, cũng như bộ đội đã đánh thắng địch về mặt quân sự” - Người nhấn mạnh.

Song, để trở thành người chiến sĩ tiên phong trên mặt trận tuyên truyền, mặt trận chính trị, tư tưởng, thì phẩm chất đầu tiên của nhà báo phải có dũng khí. Phải có dũng khí để ngòi bút không bị lệ thuộc vào quyền lực, danh lợi, hay không bị bẻ cong để phục vụ những toan tính lợi ích và mục đích không trong sáng. Và, để có được phẩm chất ấy lại đòi hỏi người cầm bút phải có lập trường chính trị vững chắc. “Chính trị phải làm chủ. Đường lối chính trị đúng thì những việc khác mới đúng được. Cho nên các báo chí của ta đều phải có đường lối chính trị đúng”, Bác căn dặn. Hơn thế nữa, mục tiêu chính trị đúng đắn và lập trường chính trị vững chắc sẽ tạo nên sức mạnh tinh thần cho tờ báo và mang lại dũng khí cho người cầm bút mà không một thế lực nào có thể khuất phục được.

Khôi Nguyên



 {name} - {time}

 Trả lời

{body}
 {name} - {time}
{body}

0 bình luận

Ý kiến của bạn sẽ được biên tập trước khi đăng. Vui lòng gõ tiếng Việt có dấu

Địa phương

Xem thêm TP.Thanh Hóa

Thời tiết

Chia sẻ thông tin với bạn bè!
Tắt [X]