Khát vọng mới bên dòng Mã giang (Bài 3): Nơi in dấu những chiến công
Từ ngàn xưa, sông Mã không chỉ là dòng chảy mang phù sa bồi đắp cho đồng đất xứ Thanh, mà còn là mạch nguồn chảy tràn trong tâm thức, khắc sâu những trang sử oanh liệt của dân tộc. Nơi đôi bờ sóng nước ấy, bao lớp người đã ngã xuống, máu hòa vào dòng sông, tạo nên những trường ca bất tử trong hành trình giữ nước.
Lễ hội Lam Kinh nhằm tưởng nhớ, tôn vinh, tri ân Anh hùng dân tộc Lê Lợi, các vua Lê, tướng sĩ và Nhân dân có công lao đóng góp trong lịch sử dựng nước và giữ nước.
Vùng thượng lưu - khúc mở đầu bản hùng ca
Theo dòng Mã giang ngược lên miền thượng du, qua ghềnh thác Bá Thước, Quan Hóa, ta như được trở về với thế kỷ XV - thời khởi nghĩa Lam Sơn bừng bừng khí thế. Cái thế núi sông nơi đây không chỉ dựng nên phong cảnh hữu tình, mà còn hóa thành thành lũy thiên nhiên che chở cho nghĩa quân. Một trong những trận đánh để lại nhiều dấu ấn của nghĩa quân Lam Sơn, đó là vào năm Kỷ Hợi (1419), Lê Lợi đã đưa nghĩa sĩ ngược lên Mường Thôi (Tây Bắc Thanh Hóa, giáp Lào), chọn miền sơn cước ven sông Mã làm căn cứ. Đất ấy, rừng ấy, sông ấy đã cưu mang bao bữa cơm chấm muối rừng, đã nuôi lớn chí khí “Bình Ngô”. Tại đây, nghĩa quân được Nhân dân các bộ tộc Ai Lao (Lào) giúp đỡ lương thực, khí giới, voi, ngựa nên lực lượng nghĩa quân ngày thêm vững mạnh. Từ Mường Thôi, nghĩa quân theo lưu vực sông Mã nhiều lần tiến xuống hoạt động ở vùng Lỗi Giang (gồm các huyện Bá Thước, Cẩm Thủy và một phần phía Đông Nam huyện Quan Hóa cũ). Hoạt động phân tán và rộng khắp của nghĩa quân Lam Sơn khiến cho quân Minh ở Tây Đô và Thanh Hóa không sao đàn áp nổi.
Từ đầu năm Canh Tý (1420), nhà Minh phải điều thêm quân từ Vân Nam, Tứ Xuyên (Trung Quốc) và cử tham tướng Trần Trí sang giúp Lý Bân đàn áp các cuộc khởi nghĩa của quân ta. Sau khi dẹp yên các cuộc khởi nghĩa ở ngoài Bắc, tháng 10 năm Canh Tý (1420), Tổng binh Lý Bân điều động hơn 10 vạn quân, mở cuộc tiến công lớn lên căn cứ nghĩa quân Lam Sơn ở Mường Thôi. Quân địch, một bộ phận từ thành Tây Đô tiến lên, một bộ phận do thổ quân Cầm Lạn dẫn đường từ Quỳ Châu (Nghệ An) theo đường núi tiến lên. Nghĩa quân Lam Sơn đã bố trí mai phục trên đường tiến quân của địch, liên tiếp đánh thắng 3 trận lớn ở Bến Bồng (thượng lưu sông Chu), Bồ Mộng (tả ngạn sông Mã, trên đường từ Cẩm Thủy lên Quan Hóa và Thi Lang, hay Bồ Thi Lang (gần căn cứ Mường Thôi), qua đó bẻ gãy cuộc tiến công lớn của chúng...
Tiếp đến là trận đánh tại Úng Ải (tức đèo Ống, nay thuộc xã Thiết Ống) năm Tân Sửu (1421) là một trong những chiến công vang dội, đánh tan quân Minh hùng mạnh, khẳng định thế và lực của nghĩa quân Lam Sơn. Làm cho ảnh hưởng của cuộc khởi nghĩa ngày càng lan rộng và kích động mạnh mẽ phong trào đấu tranh giành độc lập của Nhân dân ta, mở ra bước ngoặt đưa nghĩa quân thoát khỏi thế bị động, tiến xuống đồng bằng, giành thế chủ động vào Nam, ra Bắc, để rồi kết thúc bằng đại thắng năm 1428...
Không chỉ thời nghĩa quân Lam Sơn, vùng thượng nguồn sông Mã còn lưu dấu phong trào Cần Vương cuối thế kỷ XIX. Những văn thân, nghĩa sĩ, đồng bào các dân tộc Mường, Thái, Dao nơi đây đã cùng đứng lên chống Pháp, sông Mã ở vùng đất Cổ Lũng, La Hán (Bá Thước)... lại một lần nữa chứng kiến sự kiên cường của quân dân Thanh Hóa. Những đồn giặc từng chốt giữ hai bên bờ sông đã bị ta bao vây, tiến công và để lại nhiều chiến công hiển hách, nay đã trở thành di tích lịch sử kháng chiến.
Trải qua nhiều cuộc kháng chiến, miền Tây Thanh Hóa luôn được xác định có vị trí chiến lược quân sự đặc biệt quan trọng, là cửa ngõ tiếp giáp với nước bạn Lào, nối thông với các tỉnh Nghệ An, Hòa Bình, Sơn La thành một hành lang phía Tây. Bởi vậy, thực dân Pháp muốn đánh chiếm để uy hiếp vùng đồng bằng trung du Thanh Hóa. Trong đó, Cổ Lũng là nơi có đầu mối giao thông thuận lợi, án ngự các con đường trọng yếu, từ đây có thể dễ dàng ngược lên Vạn Mai - Suối Rút, lên Tây Bắc, sang Hòa Bình, hoặc sang Hồi Xuân để vào Nghệ An, sang Sầm Nưa (Lào), hoặc xuống các vùng đồng bằng.
Tháng 7/1947, thực dân Pháp và lực lượng “Lào gian” bỏ đồn hành quân ra Ban Công (Bá Thước), định hội quân với đồn La Hán. Tuy nhiên, địch đã bị một tổ đội du kích của ta phục kích bất ngờ. Bọn giặc hoảng hốt bỏ chạy theo đường Mỏ Bỉ lên Hồi Xuân không dám đi ra La Hán. Đây là chiến công đầu tiên của Nhân dân Cổ Lũng đối với thực dân Pháp, nhắc nhở chúng không được coi thường mảnh đất này. Lần thứ hai, vào đêm 13/12/1949 quân ta mai phục tiêu diệt 2 tên quan Pháp, 1 lính Âu - Phi phụ trách điện đài, buộc quân địch phải đầu hàng và giao nộp 90 khẩu súng trường, 1 súng cối cho Ủy ban kháng chiến hành chính huyện Bá Thước. Đến ngày 17/12/1949, quân ta tiếp tục tấn công vào các đồn, trại của quân Pháp, trong đó Đồn Cổ Lũng được giải phóng hoàn toàn...
Đây là một cuộc chiến đấu cam go, đầy hy sinh, gian khổ, kéo dài 16 tháng bằng nhiều hình thức, chiến thắng Đồn Cổ Lũng chặt đứt một mắt xích quan trọng trong hệ thống phòng thủ của giặc, tạo điều kiện cho quân và dân ta mở rộng chiến dịch lên vùng Hòa Bình, Tây Bắc, Thượng Lào...
Hàm Rồng - khúc tráng ca thế kỷ XX
Nếu thượng nguồn sông Mã là khúc dạo đầu của nghĩa quân Lam Sơn; trận đánh Đồn Cổ Lũng làm nhụt ý chí chiến đấu của quân Pháp, thì Hàm Rồng - Nam Ngạn chính là đỉnh cao của bản trường ca thế kỷ XX. Ngày 3 và 4/4/1965, bầu trời Thanh Hóa rền vang tiếng động cơ phản lực. 174 tốp máy bay Mỹ, với 454 lần chiếc đã lao xuống Hàm Rồng, trút bom, bắn rốc-két, hòng đánh gãy cây cầu huyết mạch bắc qua sông Mã. Nhưng đáp lại, từ những trận địa pháo bên bờ, quân dân Thanh Hóa đã kiên cường chống trả. Lửa đạn giội xuống, đất trời rung chuyển, nhưng cầu Hàm Rồng vẫn hiên ngang sừng sững. 47 chiếc máy bay Mỹ bị bắn hạ, nhiều giặc lái bị bắt sống. Báo chí Mỹ phải cay đắng gọi đó là “hai ngày đen tối nhất của không lực Hoa Kỳ”. Còn với người dân Thanh Hóa, đó là hai ngày máu xương và niềm tin hợp lại, dựng thành bản hùng ca bất tử. Người mẹ tiễn con ra trận ở bến sông, dặn rằng: “Nếu con ngã xuống, sông Mã sẽ ôm con như lòng mẹ”. Câu nói ấy từ lâu đã hóa thành biểu tượng của sự hy sinh và tình mẫu tử thiêng liêng trong chiến tranh. Không chỉ Hàm Rồng, cả vùng sông Mã từ Nam Ngạn, Yên Vực, Đông Sơn đến Phà Ghép... đều biến thành “túi bom”. Nhân dân Thanh Hóa đào hầm, dựng lán, đặt pháo ngay sát mép sông. Có thanh niên xung phong đã ngã xuống khi vác đạn băng qua bến nước, có em nhỏ làm liên lạc lặng lẽ đưa thư qua chiến hào. Máu của họ, cùng với bom đạn, đã hòa vào dòng sông, để sông Mã hôm nay không chỉ nặng phù sa, mà còn nặng máu đào. Nhân chứng sống - những cựu chiến binh Hàm Rồng, Nam Ngạn - kể lại: Giữa cơn bão lửa đạn, người ngã xuống, người khác lại đứng lên, dòng người ra trận cứ nối tiếp nhau như chính dòng sông không bao giờ cạn. Cựu chiến binh Lê Xuân Giang, nguyên Chính trị viên Đại đội 4, Trung đoàn 228, đã gọi đó là biểu tượng của “máu, xương, niềm tin” - một trận đánh đi vào huyền thoại. Tất cả đã hợp thành bản trường ca bất tử. Máu, mồ hôi, nước mắt và niềm tin đã hòa vào dòng chảy ấy, để sông Mã không chỉ nuôi dưỡng đồng đất, mà còn nuôi dưỡng tâm hồn dân tộc.
Cầu Hàm Rồng - cây cầu huyền thoại làm nên chiến thắng lịch sử của quân và dân Thanh Hóa.
Những chiến công bên dòng Mã giang không chỉ góp phần vào thắng lợi chung của dân tộc, mà còn trở thành ngọn lửa nuôi dưỡng niềm tin, ý chí của người dân Thanh Hóa. Đồng chí Đinh Tiên Phong, nguyên Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Hội Cựu chiến binh tỉnh, khẳng định: Chiến thắng Hàm Rồng - Nam Ngạn là minh chứng sáng ngời cho sức mạnh chiến tranh Nhân dân, giáng đòn mạnh vào chiến lược chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ. Trong công cuộc đổi mới và hội nhập hôm nay, bài học về ý chí quật cường, sức mạnh đoàn kết từ sông Mã vẫn là động lực thôi thúc toàn Đảng, toàn dân, toàn quân Thanh Hóa vững bước đi lên, viết tiếp những trang sử vàng trên chặng đường mới.
Dòng Mã giang - nơi bồi đắp phù sa cho ruộng đồng, nuôi dưỡng văn hóa, đồng thời cũng là nơi ghi dấu những chiến công bất tử. Những trang sử vàng viết bên dòng sông ấy sẽ mãi mãi là niềm tự hào, là lời nhắc nhở các thế hệ hôm nay và mai sau tiếp nối truyền thống, dựng xây quê hương, đất nước ngày càng hùng cường, thịnh vượng.
Bài và ảnh: Xuân Minh
(Bài viết có sử dụng tư liệu: 90 năm Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa (1930-2020) - NXB Thanh Hóa - 2020; 35 vị vua khai quốc công thần Lam Sơn - NXB Thanh Hóa - 2020; Lê Quý Đôn toàn tập, Đại Việt thông sử, tập III).
Bài cuối: Tầm nhìn chiến lược phát triển không gian đôi bờ sông Mã
Bình luận
Xin vui lòng gõ tiếng Việt có dấu