Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định đưa tới thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là cuộc đụng đầu lịch sử giữa Việt Nam - một nước nhỏ, lạc hậu với đế quốc Mỹ - một đế quốc có tiềm lực kinh tế, quân sự đứng hàng đầu các nước tư bản. Trải qua 21 năm (1954-1975) kháng chiến đầy gian khổ, hy sinh, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nhân dân ta đã lần lượt đánh thắng các chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ, giành thắng lợi từng bước, tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn vào mùa Xuân 1975 lịch sử.
Ảnh minh họa: Vietnam+
Từ thực tế lịch sử của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước cho thấy, thành quả cách mạng ấy là tổng hợp của một loạt nhân tố, nhưng trong đó sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định đưa tới thắng lợi.
Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng thể hiện từ việc đề ra đường lối cách mạng đúng đắn, độc lập, tự chủ, sáng tạo đến việc tổ chức thực hiện đường lối đó với nghệ thuật chiến tranh nhân dân sáng tạo và phương pháp cách mạng đúng đắn phù hợp với điều kiện lịch sử cụ thể và sự phát triển của cách mạng Việt Nam trong từng giai đoạn của cuộc kháng chiến.
Sau Hiệp định Giơnevơ (năm 1954), đất nước ta tạm thời bị chia cắt làm hai miền với hai chế độ chính trị khác nhau. Trong khi miền Bắc đã được giải phóng, thì ở miền Nam đế quốc Mỹ nhảy vào thay thế Pháp với âm mưu chia cắt lâu dài đất nước ta, biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới, thành căn cứ quân sự của Mỹ. Khó khăn lớn của cách mạng nước ta lúc bấy giờ không chỉ là phải đối phó với một kẻ thù mạnh hơn chúng ta rất nhiều mà còn chịu tác động của cả tình hình thế giới. Một số nước muốn nước ta giữ nguyên hiện trạng cách mạng hai miền, không muốn chiến tranh vũ trang với đế quốc Mỹ.
Hơn thế nữa, trong hệ thống XHCN xuất hiện các khuynh hướng của chủ nghĩa xét lại, cơ hội và sự bất hòa, chia rẽ giữa một số nước... cũng là những trở ngại, tác động tiêu cực tới cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của Nhân dân ta và khó khăn cho Đảng ta trong hoạch định đường lối kháng chiến.
Trong bối cảnh đó, với bản lĩnh chính trị vững vàng và tinh thần trung thành vô hạn với Tổ quốc, với Nhân dân; trên cơ sở đánh giá đúng bản chất, âm mưu, hành động của kẻ thù và sự tương quan về lực lượng; bám sát diễn biến thực tế của tình hình chiến trường trong nước, khu vực và thế giới; vững tin vào lòng yêu nước và sức mạnh to lớn của Nhân dân, tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 15 khóa II (tháng 1/1959), Đảng đã hoạch định được đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước một cách toàn diện và cơ bản.
Trong đó, xác định nhiệm vụ trước mắt của cách mạng miền Nam là đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược và gây chiến, đánh đổ tập đoàn tay sai thống trị Ngô Đình Diệm, thực hiện độc lập dân tộc, thống nhất nước nhà. Đồng thời, khẳng định con đường phát triển cơ bản của cách mạng ở miền Nam là khởi nghĩa giành chính quyền về tay Nhân dân. Phương pháp cách mạng là dùng bạo lực cách mạng của quần chúng nhân dân, kết hợp đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang.
Nghị quyết Trung ương 15 khóa II là một dấu mốc lịch sử thể hiện rõ bản lĩnh chính trị vững vàng và tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo của Đảng trong những thời điểm khó khăn, thử thách của cách mạng để đề ra đường lối kháng chiến chống Mỹ phù hợp với điều kiện thực tiễn, đáp ứng đúng nguyện vọng của đông đảo các tầng lớp Nhân dân; đã là ngọn lửa làm bùng lên cao trào Đồng Khởi đầu năm 1960, làm tan rã một bộ phận quan trọng chính quyền cơ sở của địch ở nông thôn và tạo nên bước phát triển nhảy vọt của cách mạng miền Nam, đưa cách mạng miền Nam từ thế giữ gìn lực lượng chuyển sang thế tiến công.
Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III (năm 1960), Đảng chính thức thông qua đường lối cách mạng cả nước là tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng ở hai miền: cách mạng XHCN ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam. Đồng thời, xác định, hai chiến lược cách mạng này có quan hệ mật thiết, tác động, thúc đẩy, hỗ trợ lẫn nhau cùng phát triển để thực hiện mục tiêu chung của cách mạng Việt Nam là độc lập, hòa bình, thống nhất Tổ quốc.
Trong đó, nhiệm vụ cách mạng ở miền Bắc là: “nhiệm vụ quyết định nhất đối với sự phát triển của toàn bộ cách mạng nước ta, đối với sự nghiệp thống nhất nước nhà của nhân dân ta” [1], còn cách mạng miền Nam “có tác dụng quyết định trực tiếp đối với sự nghiệp giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, thực hiện hoà bình thống nhất nước nhà, hoàn thành nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước" [2]. Đây là nét độc đáo chưa có tiền lệ trong lịch sử, thể hiện sự linh hoạt, sáng tạo của Đảng về vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin vào hoàn cảnh cụ thể ở Việt Nam, kết hợp nhuần nhuyễn hai mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Cùng với việc đề ra đường lối cách mạng đúng đắn, sự lãnh đạo tài tình, đúng đắn của Đảng còn thể hiện ở việc thực hiện phương cách mạng sáng tạo. Nhất là kiên định phương pháp cách mạng bạo lực với hai lực lượng chủ yếu là lực lượng quần chúng và lực lượng vũ trang; kết hợp chặt chẽ đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang; kiên trì thực hiện tư tưởng chiến lược tiến công một cách sáng tạo, linh hoạt.
Đồng thời, kiên trì thực hiện tư tưởng chiến lược tiến công với phương châm: đánh lui từng bước, đánh đổ từng bộ phận, kéo địch xuống thang từng bước, tiến tới đánh bại hoàn toàn quân địch, giành thắng lợi quyết định của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Chiến lược đó được thực hiện không chỉ trong lúc địch “xuống thang” mà ngay cả khi chúng “leo thang” chiến tranh; không chỉ đối với chiến tranh cách mạng ở miền Nam, mà cả trong cuộc chiến đấu bảo vệ miền Bắc.
Đặc biệt, sau khi Hiệp định Pari được ký kết (27/1/1973), quân đội viễn chinh Mỹ buộc phải rút khỏi miền Nam Việt Nam, cục diện chiến trường chuyển biến có lợi cho quân dân ta. Nắm vững thời cơ chiến lược được mở ra sau gần hai mươi năm chiến đấu, Hội nghị Trung ương lần thứ 21 khoá III (7/1973) đã khẳng định quyết tâm giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc trong thời gian sớm nhất.
Đến giữa năm 1974, những điều kiện cho việc giải phóng miền Nam đã chín muồi, từ ngày 8/12/1974 đến ngày 8/1/1975, Bộ Chính trị họp và ra quyết tâm chiến lược giải phóng miền Nam trong 2 năm (1975-1976) và dự kiến nếu thời cơ đến vào đầu hoặc cuối năm 1975 thì lập tức giải phóng miền Nam ngay năm 1975.
Khi thời cơ đến, lập tức Đảng ta chỉ đạo quân dân ta mở chiến dịch Tây Nguyên và chiến dịch Huế - Đà Nẵng giành thắng lợi; tiếp đến là giải phóng Sài Gòn trước mùa mưa năm 1975.
Bên cạnh đó, trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, nghệ thuật quân sự và chiến tranh nhân dân Việt Nam đã phát triển tới đỉnh cao. Trong đó, nhân tố bảo đảm cho sự phát triển không ngừng của chiến tranh nhân dân đó là lực lượng vũ trang nhân dân, gồm ba thứ quân: bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân tự vệ được xây dựng vững mạnh, bố trí rộng khắp; các binh đoàn chủ lực giữ vai trò nòng cốt trong các chiến dịch, thực hiện tác chiến hiệp đồng quân, binh chủng quy mô lớn. Nắm vững quy luật chiến tranh, vận dụng và thực hiện sáng tạo nghệ thuật quân sự của chiến tranh nhân dân, chúng ta đã từng bước chuyển hoá cục diện chiến trường theo hướng có lợi, luôn đánh địch trên thế mạnh, thế chủ động, thế bất ngờ.
Nét đặc sắc, độc đáo của chiến tranh nhân dân còn được thể hiện ở chỗ đã kết hợp chặt chẽ các nhân tố “thế, lực, thời, mưu” trong từng trận đánh, từng chiến dịch một cách linh hoạt, làm cho địch không thể lường được các hướng, mũi, lực lượng và sức mạnh tiến công của ta. Đó là cơ sở để Đảng ta kiên trì thực hiện phương châm chiến lược: đánh đổ từng bộ phận quân địch, giành thắng lợi từng bước, tiến tới đánh bại hoàn toàn quân địch, giành thắng lợi cuối cùng bằng cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, kết thúc thắng lợi hoàn toàn cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vĩ đại của quân và dân ta, tạo bước ngoặt trong lịch sử dân tộc, mở ra kỷ nguyên mới đối với nước ta - kỷ nguyên độc lập, thống nhất, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Có thể khẳng định, thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước với đỉnh cao là cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 bắt nguồn từ nhiều nhân tố, trong đó sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định. Chính vì vậy, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng (1976) đã khẳng định: “Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là thành quả tổng hợp của một loạt nhân tố tạo nên sức mạnh vô địch của cách mạng Việt Nam. Nguồn gốc của mọi nhân tố ấy chính là sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng ta” [3].
Phát huy những thắng lợi của kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, từ năm 1975 đến nay, Đảng ta luôn kiên định đường lối độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, giữ vững bản chất cách mạng của Đảng với tinh thần tự phê bình và phê bình trước những sai lầm, khuyết điểm, Đảng đã đề ra và tổ chức thực hiện đường lối đổi mới toàn diện đất nước.
Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử mà đất nước đã đạt được sau gần 40 năm thực hiện công cuộc đổi mới, một lần nữa khẳng định về vai trò và sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng đối với cách mạng nước ta không chỉ trong đấu tranh giải phóng dân tộc, giành quyền độc lập mà cả trong xây dựng và phát triển đất nước theo mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Th.s. Lê Ái Bình
Trường Chính trị tỉnh Thanh Hóa
----------------------
[1] .Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H2002, t21, tr.510
[2] .Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H2002, t21, tr.511
[3] .Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H2002, t32, tr.472
{name} - {time}
-
2025-04-23 10:47:00
Nâng cao chất lượng thanh tra công trình dự án đầu tư công, phòng ngừa tham nhũng, tiêu cực
-
2025-04-23 09:45:00
Nâng cao chất lượng giám sát việc giải quyết kiến nghị của cử tri
-
2025-04-22 10:13:00
Những con đường ý Đảng, lòng dân
Giá trị vững bền trong tư tưởng của Vladimir Ilyich Lenin
Tạo đồng thuận trong Nhân dân về sắp xếp đơn vị hành chính
Toàn dân đoàn kết xây dựng NTM, đô thị văn minh ở Thiệu Hóa
Dân vận ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi
Thọ Xuân chú trọng công tác kiểm tra, giám sát
Góp phần bảo vệ bình yên nơi biên giới
Phát huy vai trò người đứng đầu ở chi bộ thôn
TP Sầm Sơn vượt chỉ tiêu phát triển đảng viên