(Baothanhhoa.vn) - “Trai lớn lấy vợ, gái lớn gả chồng”, câu tục ngữ mộc mạc mà sâu xa, như một dấu mốc quan trọng trong đời người. Khi con trai, con gái đã đến tuổi trưởng thành là lúc bắt đầu hành trình xây dựng tổ ấm riêng. Với người Thái xứ Thanh, đám cưới không chỉ là sự kiện trọng đại của đôi lứa, mà còn là ngày hội văn hóa, nơi đan cài giữa phong tục, tín ngưỡng, âm nhạc và nghệ thuật truyền thống được gìn giữ qua bao thế hệ.

Độc đáo đám cưới người Thái xứ Thanh

“Trai lớn lấy vợ, gái lớn gả chồng”, câu tục ngữ mộc mạc mà sâu xa, như một dấu mốc quan trọng trong đời người. Khi con trai, con gái đã đến tuổi trưởng thành là lúc bắt đầu hành trình xây dựng tổ ấm riêng. Với người Thái xứ Thanh, đám cưới không chỉ là sự kiện trọng đại của đôi lứa, mà còn là ngày hội văn hóa, nơi đan cài giữa phong tục, tín ngưỡng, âm nhạc và nghệ thuật truyền thống được gìn giữ qua bao thế hệ.

Độc đáo đám cưới người Thái xứ Thanh

Đội nón cho con gái trước khi về nhà chồng là một thủ tục không thể thiếu trong đám cưới truyền thống của người Thái.

Mường Le - tên gọi xưa của vùng đất xã Trung Thành, từ lâu được biết đến là cái nôi văn hóa của người Thái Đen. Sau sáp nhập đơn vị hành chính, xã Trung Thành có gần 9.000 nhân khẩu, trong đó trên 75% là người Thái. Trải qua bao thế kỷ lập bản dựng mường, người Thái nơi đây vẫn giữ trọn niềm tự hào về bản sắc văn hóa dân tộc mình. Đồng thời, luôn gìn giữ những phong tục, nghi lễ tốt đẹp, đậm đà bản sắc, trong đó có nghi lễ cưới hỏi truyền thống.

Mong muốn tìm hiểu những nét đẹp còn được bảo tồn trong cưới hỏi của người Thái, chúng tôi về bản Phai đúng dịp một lễ cưới truyền thống được phục dựng. Giữa không gian núi rừng bình yên, tiếng khặp, tiếng khèn, tiếng chiêng ngân nga hòa quyện trong sắc màu thổ cẩm rực rỡ, tái hiện một nghi lễ linh thiêng, đậm chất văn hóa vùng cao. Theo bà Hà Thị Thoán, người am hiểu về văn hóa dân tộc Thái tại xã Trung Thành, hôn nhân với người Thái luôn bắt đầu từ tình cảm chân thành của đôi lứa. Khi tình yêu “đơm hoa, kết trái”, chàng trai thưa với cha mẹ để tìm ông mối đến dạm hỏi. Trước đây, một lễ cưới truyền thống phải trải qua ít nhất 6 thủ tục, bao gồm páy loóng khoam (lễ dạm ngõ), xóo pợ (lễ xin cưới), ban đoóng (lễ bàn cưới), kín đoóng (lễ cưới chính thức), tón pợ mớ (nghi thức rước dâu) và lễ lại nhà (páy khứn hoi).

Buổi dạm ngõ, buổi gặp gỡ đầu tiên giữa hai gia đình diễn ra giản dị, thân tình, không cần sính lễ. Nếu được chấp thuận, nhà trai sẽ mời ông mối, bà mối (tiếng Thái là ung xư, pả xư) chọn ngày lành tháng tốt để sang nhà gái xin cưới chính thức. Lễ vật lúc này không thể thiếu rượu men và trầu cau - biểu tượng của gắn bó và chân thành. Câu mở lời thưa gửi thường được ông mối trình bày đầy tính hình tượng: “Con trai lớn chúng tôi phải lòng người con gái hiếu thảo, xinh đẹp của ông bà. Nếu không chê gia đình nghèo, xin được đón con gái hai vị về làm dâu. Nó sẽ như mó nước đầu nguồn, mang nước về ruộng, chăm chỉ cày bừa, dựng xây nhà cửa, lo toan gia đình...”. Nếu cảm nhận được sự chân thành, nhà gái sẽ đồng ý, và hai bên cùng bàn bạc về ngày cưới, số lượng khách mời, lễ vật, phân công nhiệm vụ cụ thể trong lễ ăn hỏi và cưới chính thức.

Trong ngày cưới, đoàn nhà trai thường gồm ông mối làm trưởng đoàn, chú rể và phụ rể, mẹ chàng trai cùng họ hàng, bạn bè. Đi cùng là khoảng 8 cặp nam nữ thanh niên gánh, khiêng sính lễ. Vật phẩm cưới hỏi được chuẩn bị kỹ càng, bao gồm 1 chiếc nồi đồng 4 quai (mỏ toong xi hú), một con lợn, một đôi gà trống mái, đôi rượu men lá, ống nứa cá chua cùng các lễ vật mang tính truyền thống là 4 cuộn vải thổ cẩm, bộ váy áo truyền thống tặng mẹ vợ, vòng bạc tặng anh trai, em trai của mẹ cô dâu, khăn lớn để gói đồ, váy áo, vòng tay cho cô dâu...

Khi đoàn rước dâu vừa đến chân cầu thang nhà sàn, ông mối cất tiếng khặp xin vào nhà: “Có ai trong nhà, xin thưa một lời?/ Khách từ xa đến, dạ bồi hồi chơi vơi/ Chủ nhà ơi, cho xin chén nước/ Cho vơi nỗi nhớ, cho ấm lòng người”. Nhà gái đối đáp khéo léo, bằng những lời khặp hình tượng và duyên dáng: “Thông gia xa đã ghé nhà/ Tôi còn chưa kịp chào, ra đón mời/ Chim én ríu rít trong rừng/ Cú mèo giục giã tôi mừng về ngay”. Những lời khặp, nửa như lời ca, nửa như thi thoại khiến bầu không khí lễ cưới thêm phần long trọng mà gần gũi. Mọi bối rối, xa lạ giữa hai họ cũng dần được xóa nhòa trong tiếng cười, tiếng nhạc và sự đồng thuận ấm áp.

Trong suốt buổi lễ, tiếng khua luống, tiếng chiêng, khèn, sáo cùng lời khặp giao duyên vang lên rộn rã. Khi mặt trời vừa hửng sáng cũng là lúc cô dâu chính thức được rước về nhà chồng. Trước khi chia tay nhà gái, nhà trai nhận lại sính lễ “hồi môn”, gồm 6 chiếc chăn, 6 chiếc gối, 6 chiếc đệm ngồi, 1 chiếc màn đen (pởi chớ) - biểu trưng cho sự chu toàn của người con gái Thái khi về nhà chồng. Trong nghi thức trao nhận, các đại diện nhà gái khặp đố. Nếu nhà trai đáp đúng, mới được nhận lễ vật, nếu đáp sai thì phải phạt bằng chén rượu. Những nam nữ khiêng lễ cũng được quệt nhọ nồi lên má - một tục lệ mang ý nghĩa trừ tà, cầu an.

Giữa không gian sàn gỗ truyền thống, người mẹ già cất lên khúc khặp tiễn con, lời ca chan chứa tình mẫu tử. Không chỉ nhắn nhủ con gái về đạo làm dâu, lời khặp ấy còn là cách mẹ gửi gắm tới nhà chồng, mong sự bao dung cho con gái những ngày đầu bỡ ngỡ: “Tuy nghèo nhưng nghĩa còn nồng/ Của hồi môn ít, chẳng mong bạc vàng/ Xin người chỉ bảo ân tình/ Dạy con nên nết, học hành nên nhân”.

Khi bước chân lên cầu thang nhà trai, cô dâu phải bỏ nón và làm lễ rửa chân, thể hiện lòng thành kính và báo cáo với tổ tiên về thành viên mới trong gia đình. Cô dâu vái lạy bàn thờ tổ tiên, trong khi ông mối dâng mâm cúng gồm thủ lợn, rượu và bánh chưng, thưa gửi từ nay, người con gái này là con dâu chính thức của dòng họ, xin được các bậc tiền nhân phù hộ. Tiếp đó, cô dâu ra mắt họ hàng bên chồng. Mỗi người thân sẽ tặng quà mừng cưới như vòng tay, khăn thổ cẩm, áo cóm, trâm cài tóc... Nhận xong, cô dâu vái 3 lạy cảm tạ, hứa làm tròn bổn phận người vợ, người con, giữ gìn hạnh phúc gia đình.

Một chi tiết thú vị là sau lễ cưới, phụ dâu ở lại cùng cô dâu 3 ngày 3 đêm, trong khi chú rể chưa được gần gũi vợ. Chiếc giường tân hôn phải do người mắn con, mát vía trong dòng họ nằm trước để truyền lộc cho đôi trẻ. Đến ngày thứ tư, đôi vợ chồng mới cùng cha mẹ sang nhà gái làm lễ lại mặt. Từ đây, người chồng chính thức được qua lại và làm tròn bổn phận làm rể.

Ngày nay, cùng với nhịp sống hiện đại và chủ trương xây dựng đời sống văn hóa mới, đám cưới người Thái ở xã Trung Thành đã giản lược nhiều thủ tục, thời gian tổ chức ngắn gọn hơn. Tuy nhiên, những giá trị cốt lõi về lễ nghĩa, sính lễ, lời ca, nghi thức thờ cúng tổ tiên và sự gắn kết cộng đồng vẫn được trân trọng gìn giữ. Bởi lễ cưới hỏi trong đời sống người Thái là nơi hội tụ hồn cốt văn hóa dân tộc, nơi tình yêu đôi lứa hòa quyện với đạo lý làm người, gắn bó gia đình, dòng họ và cộng đồng. Giữ gìn và phát huy nét đẹp ấy chính là gìn giữ một phần tinh hoa văn hóa miền sơn cước giữa lòng xứ Thanh hôm nay.

Bài và ảnh: Bá Phượng



 {name} - {time}

 Trả lời

{body}
 {name} - {time}
{body}

0 bình luận

Ý kiến của bạn sẽ được biên tập trước khi đăng. Vui lòng gõ tiếng Việt có dấu

Địa phương

Xem thêm TP.Thanh Hóa

Thời tiết

Chia sẻ thông tin với bạn bè!
Tắt [X]