Dũng tướng góp phần củng cố cơ nghiệp họ Nguyễn trên đất phương Nam
Quê ở Gia Miêu ngoại trang (nay thuộc xã Hà Long), là con trai của chúa Tiên Nguyễn Hoàng, dù không kế nghiệp làm chúa song với tài năng, trí dũng và tận lực, ông được sử sách ghi nhận về những đóng góp trong việc củng cố cơ nghiệp họ Nguyễn trên đất phương Nam. Ông là Nghĩa hưng Quận vương Nguyễn Phúc Khê.

Vùng đất Gia Miêu ngoại trang nay thuộc xã Hà Long là quê hương của dũng tướng Nguyễn Phúc Khê. Ảnh: Khánh Lộc
Năm 1589 (có tài liệu viết 1588) Nguyễn Phúc Khê chào đời. Ban đầu, có tên là Nguyễn Khê, về sau đổi thành Nguyễn Phúc Khê, một số sử sách nhà Nguyễn còn chép tên ông là Tôn Thất Khê.
Khi người anh là Nguyễn Phúc Nguyên kế nghiệp (chúa Sãi), Nguyễn Phúc Khê được giao trọng trách trấn giữ những miền đất xa xôi của họ Nguyễn. Vốn là người bản lĩnh, lại được tôi rèn qua thực tế nên Nguyễn Phúc Khê sớm trở thành viên tướng thiện chiến. Ông đi đến đâu cũng khiến giặc kinh sợ, quy hàng, nên ông được chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên tin tưởng, giao nhiều trọng trách quan trọng.
“Tháng 3 năm Bính Dần (1626) Phúc Nguyên dời chính dinh đến đóng ở xã Phúc Yên, huyện Quảng Điền (tỉnh Thừa Thiên), xây dựng nhà cửa... Bấy giờ Phúc Nguyên đã 63 tuổi, tự thấy mình tuổi cao, sức yếu nên gọi Phúc Khê về phong tước Tường Quận công, làm Tổng trấn chính dinh. Việc nước phần nhiều do Phúc Khê đảm đương và quyết định. Chỉ riêng hình án tội nặng tử tù, phải chờ có lệnh của chúa mới được thi hành” (sách Địa chí huyện Hà Trung).
Với tấm lòng rộng mở, ông là người đã hiến kế cho chúa Sãi trong việc chiêu mộ, trọng dụng nhân tài, để đề phòng họ Trịnh ở ngoài Bắc tiến công. Cũng nhờ đấy, một trong những nhân tài có nhiều đóng góp cho họ Nguyễn trong việc chống lại thế lực họ Trịnh (Đàng Ngoài) và mở mang bờ cõi ở Đàng Trong là Đào Duy Từ đã có đất “dụng võ”.
Năm Ất Hợi (1635) chúa Sãi thấy sức đã yếu, liền cho gọi con trai Phúc Lan và Tổng trấn Phúc Khê vào chầu. “Ngài dặn dò Phúc Lan và gửi gắm việc nước cho Phúc Khê rồi băng hà... Thể theo di huấn, Ngài (Nguyễn Phúc Lan) được quần thần tôn lên nối vị chúa, gọi là chúa Thượng, để giúp đỡ ngài buổi đầu, thúc phụ của chúa là Nguyễn Phúc Khê làm cố vấn” (sách Nhà Nguyễn chín chúa mười ba vua).
Nghe tin chúa Sãi băng hà, Nguyễn Phúc Lan nối nghiệp (chúa Thượng), người em trai Nguyễn Phúc Anh lúc bấy giờ đang trấn giữ đất Quảng Nam không phục, âm mưu làm phản. Nguyễn Phúc Anh một mặt cho đắp lũy cố thủ, một mặt sai người ra Bắc thần phục chúa Trịnh, mong chúa Trịnh đưa lực lượng vượt sông Linh Giang đánh vào, còn Phúc Anh sẽ từ Quảng Nam đánh ra, khiến quân chúa Nguyễn phân tán lực lượng, khó bề chống đỡ.
Âm mưu của Phúc Anh bị quân chúa Nguyễn phát hiện. Trước tình thế “huynh đệ tương tàn”, chúa Thượng bối rối, không đành lòng nên đã cho mời chú là Nguyễn Phúc Khê vào bàn bạc. Vì không muốn xảy ra cảnh “nồi da nấu thịt”, làm khổ dân lành nên chúa Thượng định nhường quyền cho em. Tuy nhiên, là người trọng chính nghĩa, Tường Quận công Nguyễn Phúc Khê bày tỏ chính kiến: “Anh em là tình riêng, phép nước là nghĩa lớn" và xin chúa mang gươm đi đánh phạt.
Được sự chấp thuận của chúa Thượng, Nguyễn Phúc Khê dẫn theo đại binh, chia thành hai cánh thủy - bộ, cùng các tướng thiện chiến tiến vào “hỏi tội” Nguyễn Phúc Anh. Ban đầu, khi thủy quân theo đường biển tiến vào trước, Nguyễn Phúc Anh dàn quân đối trận, hai bên bất phân thắng bại. Đến khi cánh bộ binh kéo đến tập kích thì Phúc Anh không thể chống đỡ, bị đánh bại và bắt về. Về đến phủ Chúa, Phúc Anh sợ hãi kêu xin anh tha tội, chúa Thượng thương em định tha, nhưng chú Nguyễn Phúc Khê và các tướng cứng rắn nói Phúc Anh mắc tội phản nghịch, phải trừng trị nghiêm để giữ phép, cũng là để răn đe những kẻ “loạn thần tặc tử”. Sau đó, Phúc Anh bị xử tử.
Tài năng song không kiêu ngạo, về sau Tường Quận công Nguyễn Phúc Khê được chúa Nguyễn tin tưởng giao phó trọng trách làm Tổng trấn Thuận Hóa - Quảng Nam, giúp chúa không chỉ việc nội trị mà còn giữ gìn bờ cõi, an dân.
Ngay cả khi sức đã yếu, Tường Quận công Nguyễn Phúc Khê vẫn đau đáu với cơ nghiệp họ Nguyễn, về cuộc giao tranh Đàng Trong - Đàng Ngoài, ông dặn dò chúa Thượng: “Hễ chúa bắt được quân Trịnh không nên thả cho về mà hãy cấp cho tiền gạo đưa vào vùng đất mới để khai thác. Như thế đất nước mới được mở mang, bản đồ nhà chúa thêm phần rộng rãi... Bởi thế miền Quảng Nam ngày nay, nhiều người còn nhớ quê gốc của mình vốn ở ngoài Bắc, vào đây theo chúa Nguyễn lập nghiệp” (sách Địa chí huyện Hà Trung).
Sau khi Nguyễn Phúc Khê qua đời, với những tận hiến cho cơ nghiệp họ Nguyễn, ông được tặng “Tá Lý Tôn thần Bình Chương Quân quốc Tường Quận công”. Khi vua Gia Long lên ngôi, ông được truy phong Nghĩa Hưng Quận vương, về sau cho thờ ở Thái miếu.
Ngày nay, tên Nguyễn Phúc Khê đã được nhiều tỉnh, thành trong cả nước đặt tên đường. Tại Thanh Hóa, cũng có một tuyến phố mang tên Nguyễn Phúc Khê nằm trên địa bàn phường Hàm Rồng.
Khánh Lộc
(Bài viết có tham khảo, sử dụng nội dung trong các sách: Địa chí huyện Hà Trung, NXB Khoa học xã hội, 2005; Nhà Nguyễn chín chúa mười ba vua, NXB Thuận Hóa, 2009).





Bình luận
Xin vui lòng gõ tiếng Việt có dấu