Đời thường của một anh hùng
Tối đông, mưa phùn rơi trên con ngõ nhỏ ở đường Trần Phú, phường Hạc Thành, chúng tôi đến thăm Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân (LLVTND) Bùi Văn Minh. Trong căn phòng nhỏ, ông Minh khẽ trở mình, đôi môi mấp máy không thành tiếng. Bà Nguyễn Thị Chính vợ ông cho biết, mấy năm nay trí nhớ của ông đã giảm sút, lúc nhớ lúc quên, có khi quên cả vợ con. Nhưng lạ thay, những ký ức chiến tranh thì dường như chưa bao giờ phai. Đêm xuống, ông hay nói mơ gọi tên đồng đội.

Anh hùng LLVTND Bùi Văn Minh cùng vợ xem lại những bức ảnh cũ.
Tôi ngồi trò chuyện cùng bà Chính, giọng bà chậm rãi trôi qua những tháng năm dài lặng lẽ của một đời làm vợ lính. Từ câu chuyện về sự chờ đợi, hy sinh nơi hậu phương, ký ức của bà đưa tôi trở lại với tuổi mười tám ra trận của người chồng. Ông Minh sinh năm 1949, quê xã Hải Lộc (cũ), nay thuộc xã Vạn Lộc. Tháng 1/1968, khi vừa tròn 18 tuổi, ông lên đường nhập ngũ, biên chế vào đơn vị vận tải chiến đấu, làm nhiệm vụ bảo đảm hậu cần cho chiến trường Quân khu 5.
Những năm 1968-1970, chiến trường miền Trung mưa dầm triền miên, đói rét và sốt rét rừng hoành hành. Gạo thiếu, muối hiếm, có những ngày đơn vị chỉ ăn cháo loãng cầm hơi, trong khi các mặt trận phía trước luôn “khát” vũ khí, đạn dược, thuốc men từng giờ. Trong hoàn cảnh ấy, ông Minh hiểu rằng mỗi bước chân người lính vận tải lúc đó không chỉ mang theo hàng hóa mà mang theo sinh mệnh của cả một trận đánh. Từ những chuyến gùi đầu tiên chỉ 45 - 50kg, ông trăn trở tìm cách xếp lại từng khẩu súng, từng thùng đạn, từng bọc thuốc sao cho gọn nhất, nhẹ nhất mà vẫn đủ số lượng. Nhờ đó, sức tải nhanh chóng tăng lên 150kg, 180kg, có chuyến đạt 186kg giữa những ngày leo dốc, lội suối, băng rừng liên tục.
Khi chuyển sang thồ hàng, thử thách còn khắc nghiệt hơn. Những con dốc dựng đứng, mặt đường trơn trượt vì mưa rừng, mỗi bánh xe trôi đi là một lần đối mặt tử thần. Thế nhưng, người lính vận tải ấy vẫn không ngừng vượt qua giới hạn bản thân. Từ 150 - 200kg/chuyến, ông kiên trì nâng dần tải trọng, có chuyến đạt tới 320kg - con số gần như không tưởng giữa bom đạn, đói rét và địa hình hiểm trở.
Trên tuyến vận tải chiến lược đường mòn Hồ Chí Minh, cái chết luôn rình rập sau mỗi tán rừng, mỗi con dốc. Trong những lần ngồi cùng đồng đội năm xưa, có một câu chuyện mà ông Minh hầu như lần nào cũng nhắc lại. Hôm đó, khi ông và một đồng đội vượt qua một con dốc cao thì rơi vào vòng vây của lính ngụy. Không còn đường rút, hai người buộc phải rút lên cố thủ trên một quả đồi trọc. Từng tốp lính bò lên. Cứ một tên ngóc đầu, một phát súng nổ. Hai người thay phiên nhau chiến đấu, vừa giữ vị trí, vừa bảo vệ hàng hóa. Sau nhiều lần bị đánh bật, địch tưởng trên đồi có lực lượng đông nên buộc phải rút lui. Toàn bộ số hàng được giữ trọn vẹn.
Trong những năm tháng trực tiếp cầm súng, ông Minh tham gia nhiều trận đánh ác liệt, tiêu diệt nhiều tên địch, buộc chúng phải rút lui, mở thông các điểm chặn hiểm yếu, bảo vệ an toàn cho những đoàn hàng kịp thời chi viện cho các mặt trận phía trước. Nhờ những thành tích đó, ông được tặng 3 Huân chương Chiến công hạng Nhất, 1 Huân chương Chiến công hạng Nhì, 2 Huân chương Chiến công hạng Ba, 1 Huân chương Kháng chiến hạng Ba; 5 năm liền là Chiến sĩ thi đua, 2 Huy hiệu Dũng sĩ Quyết thắng và 5 Bằng khen chiến dịch. Ngày 20/12/1973, ông được tuyên dương danh hiệu Anh hùng LLVTND.
Năm 1975, ông trở về quê và kết hôn với người bạn học cũ Bùi Thị Chính. Nhưng cưới xong, ông lại trở về Quân khu 5 tiếp tục công tác. Năm 1980, ông đi học Học viện Chính trị, sau đó công tác tại Cục Vận tải, Tổng cục Hậu cần. Người vợ trẻ ở lại hậu phương, một mình nuôi con, chờ chồng. Năm 1991, ông về hưu, trở về đời thường với những mảnh đạn vẫn còn găm trong cơ thể. Theo quy định, ông đủ điều kiện để hưởng chế độ thương binh, chế độ chất độc da cam, nhưng ông đã tự nguyện từ chối. Bà Chính kể: "Ông chỉ nhẹ nhàng nói mình đã có chế độ của Anh hùng LLVTND rồi, chỉ nên nhận một thôi. Phần còn lại nhường cho những đồng đội khó khăn hơn".
Tôi đang cùng bà Chính lật giở từng bức ảnh cũ đã ngả màu thời gian thì ông Minh trở dậy, pha vài câu dí dỏm rất lính, khiến không khí căn nhà ấm hẳn lên giữa đêm mưa lạnh. Rồi như một mạch chảy tự nhiên, hai ông bà kể lại chuyện ngày xưa gặp nhau, yêu nhau, rồi thành vợ chồng. Bà nhớ từng chi tiết, ông có đoạn quên lại quay sang hỏi: “Thế hôm đó là ở đâu nhỉ?”, rồi bật cười khi vợ nhắc. Hai người cùng cúi xuống những bức ảnh cũ, chỉ cho tôi xem từng khuôn mặt trẻ trung năm nào. Bà vừa xem vừa cười: “Ngày xưa ông ấy đẹp trai, thư sinh lắm".
Tôi đề xuất ông Minh mặc bộ quân phục để chụp vài tấm hình kỷ niệm. Ông vừa đứng lên, bà đã lặng lẽ theo sau, chỉnh từng khuy áo, ve cổ và đứng bên nhìn chồng, mỉm cười lặng lẽ. Dưới ánh đèn vàng, những tấm huân chương ánh lên như minh chứng cho đoạn đời in dấu rừng núi, bom đạn và những hồi ức một thời hoa lửa của một anh hùng.
Bài và ảnh: Tăng Thúy





Bình luận
Xin vui lòng gõ tiếng Việt có dấu