Đất làng Quan Thành có đền thờ vua Đinh
Ở vùng quê thuần nông, làng Quan Thành, xã Thọ Phú, nơi có đền thờ vua Đinh (Tiên Hoàng), khách vãng lai qua lại vì tò mò, còn với người dân làng, họ tự hào vì hiếm có nơi nào trên đất xứ Thanh lại lập đền thờ phụng một vị anh hùng dân tộc - người mở đầu và đặt nền xây dựng Nhà nước phong kiến Trung ương tập quyền.

Đền thờ vua Đinh đã được công nhận Di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh năm 1997. Ảnh: Chi Anh
Trong phần lớn các bộ thông sử cũng như sách chuyên khảo từ trước tới nay, nhân vật Đinh Bộ Lĩnh thường được gắn với chiến công “dẹp loạn 12 sứ quân” và thống nhất đất nước.
Là con trai của Đinh Công Trứ, một bộ tướng của Tiết Độ sứ Dương Đình Nghệ, lúc sinh thời từng giữ chức Thứ sử châu Hoan, Đinh Bộ Lĩnh sớm thể hiện tài thao lược. Sử gia Lê Văn Hưu đã có lời bình rất xác đáng: “Tiên Hoàng nhờ có tài năng sáng suốt hơn người, dũng cảm mưu lược nhất đời, đương lúc nước Việt ta không có chủ, các hùng trưởng cát cứ, một phen cất quân mà mười hai sứ quân phục hết”.
Năm 968, Đinh Tiên Hoàng lên ngôi Hoàng đế. Ông chính là người xưng hoàng đế đầu tiên ở Việt Nam - một danh xưng thể hiện tinh thần bình đẳng với các hoàng đế Trung Hoa. Sử gia Lê Văn Hưu cho rằng "có lẽ ý Trời vì nước Việt ta mà sinh bậc thánh triết. Vua chính thống của nước Việt ta, thực bắt đầu từ đấy". Để khẳng định ngôi vị hoàng đế, năm 969 ông phong con trưởng Đinh Liễn làm Nam Việt vương; phong Nguyễn Bặc làm Đinh quốc công, Lê Hoàn làm Thập đạo tướng quân... Nhà nước Đại Cồ Việt ra đời thực sự là một dấu mốc lớn trong tiến trình lịch sử dân tộc. Với việc đặt Quốc hiệu, niên hiệu, xây dựng bộ máy hành chính thống nhất thông suốt từ trên xuống dưới, xác định cương thổ, tiến hành đúc tiền đồng, có sự quan tâm đến việc phát triển kinh tế, văn hóa, quân sự... sự nghiệp tái lập quốc của dân tộc ta đã chính thức hoàn thành.
Lý giải vì sao Đinh Tiên Hoàng lại được thờ phụng tại làng Quan Thành, ông Trần Văn Tám, trưởng thôn Quan Thành, cho biết: "Từ đời nọ sang đời kia, mọi người trong làng thường kể rằng tại mảnh đất này, Đinh Bộ Lĩnh đã dừng chân và lập căn cứ quân sự. Thực hư đến đâu thì chưa biết, nhưng chúng tôi nghĩ, đó có thể là niềm tự hào, sự cảm tạ của người dân quê tôi với một vị anh hùng dân tộc".
Lý lịch di tích đền thờ vua Đinh Tiên Hoàng có ghi: Những năm 966 - 968 sau khi Nam Tấn Vương - vị vua của thời kỳ Hậu Ngô Vương băng hà, các hùng trưởng đua nhau nổi dậy và chiếm cứ, quận, ấp để tự giữ. Ngô Xương Xí chiếm giữ Bình Kiều - Ái Châu (Thanh Hóa ngày nay), lúc bấy giờ Đinh Bộ Lĩnh từ miền ngoài kéo quân vào tập trung tại thôn Cầu Trang khu, xã Hoàng Cầu, huyện Lôi Dương, nay là thôn Quan Thành, xã Thọ Phú để tiêu diệt sứ quân cuối cùng, thống nhất đất nước. Để nhắc nhớ lại chiến công của một vị vua, và để con cháu được thờ phụng, Nhân dân trong vùng, trong làng đã lập đền thờ.
Đền thờ Đinh Tiên Hoàng nằm ở một không gian bát ngát ruộng đồng, phía trước là những vườn đào đang chờ ngày ra hoa. Đền có kiến trúc hình chữ “Đinh”, gồm ba gian ngang, hai gian dọc. Trong đền còn lưu giữ long ngai, thần vị, ống hương, 4 sắc phong thời Hậu Lê và triều Nguyễn. Ngoài ra còn có lư hương bằng đá đề chữ “Đinh Tiên Hoàng đế”. Ở tuổi 98, ông Trần Văn Hỡi là người được chứng kiến số năm tổ chức lễ hội đền vua Đinh nhiều nhất trong làng. Ông cho biết: "Từ 13 đến 15 tháng Giêng là ngày diễn ra lễ hội. Ngoài phần lễ được người dân rước kiệu đi xung quanh làng thì phần hội vui lắm, nhất là phần thi cờ người. Màn thi này gắn liền với chuyện vua Đinh khi còn thiếu thời thường hay bắt lũ trẻ khoanh tay làm kiệu để ngồi, rồi cho chúng rước quanh đồng và lấy bông lau làm cờ, bày trận giả để đánh nhau... Vì thế mà đến nay, cờ người vẫn là một trò chơi dân gian trí tuệ của người làng Quan Thành.
Có thể khẳng định, dấu ấn vua Đinh Tiên Hoàng trên đất Thanh Hóa không nhiều. Một ngôi đền nhỏ nằm trong một làng nhỏ, xung quanh là cây xanh che chở. Nhưng đối với người làng/thôn Quan Thành, đền thờ vô cùng linh thiêng, che chở cho dân khỏi những trận mưa lụt, là điểm tựa để cháu con về cầu xin được an lành.
Chi Anh





Bình luận
Xin vui lòng gõ tiếng Việt có dấu