(Baothanhhoa.vn) - Cùng với việc chăm lo hương hỏa gia tiên, tiền tổ, tín ngưỡng thờ cúng tổ nghề có ý nghĩa sâu sắc trong đời sống văn hóa người Việt. Tín ngưỡng không chỉ thể hiện lòng biết ơn, tri ân của thế hệ cháu con hôm nay với những người đã có công lao, đóng góp to lớn mở mang tri thức, truyền dạy kinh nghiệm, kỹ năng nghề, tạo kế sinh nhai, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho Nhân dân, thúc đẩy kinh tế - xã hội địa phương. Hơn hết, tín ngưỡng ấy đã cho ta những chỉ dấu về sự hình thành và phát triển của nghề, làng nghề trên khắp dải đất hình chữ S nói chung, xứ Thanh nói riêng.

Tục thờ tổ nghề trên đất xứ Thanh

Cùng với việc chăm lo hương hỏa gia tiên, tiền tổ, tín ngưỡng thờ cúng tổ nghề có ý nghĩa sâu sắc trong đời sống văn hóa người Việt. Tín ngưỡng không chỉ thể hiện lòng biết ơn, tri ân của thế hệ cháu con hôm nay với những người đã có công lao, đóng góp to lớn mở mang tri thức, truyền dạy kinh nghiệm, kỹ năng nghề, tạo kế sinh nhai, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho Nhân dân, thúc đẩy kinh tế - xã hội địa phương. Hơn hết, tín ngưỡng ấy đã cho ta những chỉ dấu về sự hình thành và phát triển của nghề, làng nghề trên khắp dải đất hình chữ S nói chung, xứ Thanh nói riêng.

Tục thờ tổ nghề trên đất xứ Thanh

Đền Bà Triều trên vùng đất biển Sầm Sơn.

1. Làng Triều Dương (Sầm Sơn) vốn nằm ở nơi cuối sông đầu biển, ba bề tiếp giáp với thủy triều lên xuống, chỉ còn phía Nam neo vào bờ cát. Tự bao đời nay, người dân nơi đây luôn bày tỏ lòng biết ơn, kính trọng đến Bà Triều - Thành hoàng làng, vị tổ nghề dệt xăm súc, dệt vải của làng.

Xoay quanh nhân vật Bà Triều, dân gian lưu truyền nhiều giai thoại, truyền thuyết. Bà Triều vốn là con gái của Ngọc Hoàng vì lỡ tay đánh vỡ chén ngọc của vua cha nên bị đày xuống trần gian. Từ khi bị giáng xuống trần, thấy cảnh người dân còn nhiều thiếu khó, bà muốn truyền dạy nghề tằm tang canh cửi để người người, nhà nhà có kế sinh nhai, ổn định cuộc sống. Bà đã đi nhiều nơi thử lòng nhiều người nhưng thấy họ chỉ quý miếng ăn, tiền bạc hơn tình nghĩa đạo lý.

Khi đi tới vùng biển Sầm Sơn, bà bắt gặp cô gái tốt bụng, không quản ngại giúp đỡ bà qua cơn hoạn nạn nên bà quyết định truyền nghề cho cô gái. Ngày ngày, bà lão dạy cô gái kéo sợi dệt súc đem vào làng đổi lấy gạo và thức ăn. Lạ lùng thay súc của cô gái và bà lão làm ra được nhiều người hỏi mua, nhiều người cũng theo đó mà học nghề. Sản phẩm của cô gái và người dân nơi đây còn thu hút thương thuyền từ các nơi tới làng quê nơi cửa biển này mua bán ngư cụ, hoạt động đánh bắt của người dân cũng khấm khá hơn. Làng Triều nghèo bỗng trở nên rộn ràng bán buôn, đời sống người dân được nâng lên rõ rệt.

Sau ba năm gắn bó với dân làng, một buổi sáng trời trong xanh, người dân thấy bà lướt nhẹ trên đầu con sóng. Các lớp sóng xô nhau ào ào như reo mừng. Bóng bà nhòe dần vào sóng bạc xa tít tận chân trời. Dân làng luyến tiếc vì chưa rõ tên bà chỉ biết bà ra đi vào lúc triều dâng cuồn cuộn nên gọi bà là bà Triều và đặt tên làng của mình là làng Triều Dương, chung tay góp sức xây dựng đền để lo khói hương thờ phụng. Bà được suy tôn là “Hùng triều thánh tổ”.

Được biết, do ảnh hưởng của dòng chảy sông Mã đổ ra cửa Hội Trào nên làng Triều xưa đã bị xâm thực, cư dân phải di dời sâu vào trong đất liền, hình thành Triều Dương nội và Triều Dương ngoại. Cũng chính từ việc di dời ấy, người dân làng Triều mang theo văn hóa, tín ngưỡng đến nơi ở mới. Với tất cả lòng thành kính, biết ơn vị tổ nghề đã truyền dạy cách dệt xăm súc, dệt vải để nuôi sống bản thân, gia đình, xây dựng cuộc sống, người dân làng Triều đã xây dựng nên hai ngôi đền thờ Bà Triều ở hai nơi ở mới, trên cùng không gian phố biển Sầm Sơn. Hai ngôi đền thờ có quy mô, kiến trúc khác nhau nhưng tựu trung đều là địa điểm sinh hoạt văn hóa – tâm linh của đông đảo người dân trong vùng, nơi các thế hệ cháu con gửi gắm tình cảm yêu mến, lòng thành tâm và mong cầu sức khỏe, hạnh phúc, thành công.

Trong cuốn sách “Văn hóa dân gian biển - đảo xứ Thanh”, TS. Hoàng Bá Tường nhận định: “Suốt một dải ven biển của đất nước Việt Nam có nhiều vị thần được thờ cúng, chiêm bái, nhưng không nơi nào có một tổ nghề với những nét riêng, độc đáo như Bà Triều...”. Ông Tường kiến giải: “Qua các truyền thuyết, di tích, tín ngưỡng dân gian ở vùng biển Sầm Sơn tri ân công đức của bà tổ nghề dệt xăm súc cho thấy: Các lớp văn hóa, tín ngưỡng tích hợp, đan xen trong biểu tượng Bà Triều”. Vì lẽ đó, “tín ngưỡng thờ Bà Triều của cư dân miền biển Sầm Sơn rất cần được tiếp tục đào sâu, giải mã để thấy được các lớp văn hóa, tín ngưỡng trải thời gian đã kết tinh thành giá trị trong hình tượng vị nữ thần của cư dân làng biển này”.

2. Xứ Thanh vốn được xem là mảnh đất của bách nghệ. Trong đó, nghề và làng nghề đúc đồng Trà Đông (xã Thiệu Trung) nổi danh hơn cả. Trải qua hàng nghìn năm lịch sử, bằng sức lao động, đôi bàn tay khéo léo, tài hoa của các nghệ nhân, làng nghề vẫn luôn “đỏ lửa”. Những mẫu sản phẩm đồ đồng chất lượng, tinh xảo trong từng đường nét hoa văn từ ngôi làng Trà Đông đi khắp muôn phương không chỉ mang lại hiệu quả kinh tế cho người làm nghề mà còn góp phần lan tỏa hơn nữa danh tiếng nghề và làng nghề truyền thống này. Năm 2018, nghề đúc đồng truyền thống làng Trà Đông được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Mảnh đất này cũng là nơi sản sinh và nuôi dưỡng nên nhiều nghệ nhân, nghệ nhân ưu tú thành danh với nghề.

Tục thờ tổ nghề trên đất xứ Thanh

Đền Trà Đông (xã Thiệu Trung) - nơi thờ ông tổ nghề đúc đồng.

Trong những câu chuyện nghề, dẫu khi thăng hay trầm, những người dân nơi đây đều bày tỏ lòng tri ân sâu sắc đến Lý Quốc Sư - Nguyễn Minh Không (Khổng Minh Không), ông tổ nghề đúc đồng. Lý Quốc Sư tên húy là Nguyễn Chí Thành, quê ở Ninh Bình. Không chỉ được tôn vinh là ông tổ nghề đúc đồng, ông được biết đến là vị thiền sư sáng lập nên nhiều ngôi chùa nhất ở Việt Nam, dày công mở mang Phật giáo; y thuật cao minh. Mến mộ tài – đức, ghi nhớ công lao to lớn ấy, nhiều địa phương trên cả nước lập đền thờ Lý Quốc Sư - Nguyễn Minh Không.

Tương truyền, thời Lý, Thánh sư Nguyễn Minh Không đi qua làng Trà Đông thì ghé dừng chân nghỉ, thấy người dân trong làng siêng năng, chăm chỉ làm ruộng vất vả quanh năm mà cũng không đủ ăn, ngoài sản xuất nông nghiệp không có nghề phụ để kiếm thêm thu nhập, cải thiện cuộc sống. Do đó, ông quyết định ở lại dạy nghề và truyền nghề đúc đồng cho Nhân dân trong làng, từ đó nghề đúc đồng truyền thống được gìn giữ, phát triển đến hôm nay.

Không bề thế, nguy nga, ngôi đền thờ đức thánh Khổng Minh Không (đền Trà Đông) yên bình tọa lạc trên mảnh đất khá cao ráo của làng Trà Đông. Theo các cụ cao niên trong làng, đền được xây dựng từ thời Tự Đức, sau đó đã trải qua trùng tu, tôn tạo. Đền được thiết kế với khu vực bên ngoài tương đối rộng, không cột tạo cảm giác thoáng đãng. Tiếp đó là 3 gian chạy dọc, gian giữa là sập hội đồng. Gian này cách gian trong cùng một lần cửa. Gian trong cùng đặt tượng Đức thánh Khổng Minh Không và các đồ tế khí. “Mặt tiền” của ngôi đền có phần trang trí độc đáo với phía trên mái là biểu tượng lưỡng long chầu nguyệt, phía dưới là hình đắp nổi tái hiện cảnh Đức thánh đi lấy Kinh Phật, đi lấy đồng và truyền nghề đúc đồng. Chính giữa mặt tiền là dòng chữ đắp nổi - “Tối linh quang từ”. Từ giá trị lịch sử - văn hóa ấy, đền được công nhận di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia năm 1990.

Trước biến thiên thời gian, thăng trầm lịch sử, đến nay, có những ngôi làng vẫn gìn giữ và phát triển nghề, làng nghề truyền thống, có những nơi đã mai một. Tuy nhiên, những ngôi đền thờ và tín ngưỡng thờ tổ nghề vẫn bền bỉ sức sống trong dòng chảy văn hóa Việt nói chung, xứ Thanh nói riêng. Đó vừa là điểm tựa tinh thần vừa là nguồn động lực lớn lao để các thế hệ cháu con nơi đây nỗ lực, phấn đấu xây dựng quê hương, đất nước ngày càng phồn vinh, thịnh vượng.

Bài và ảnh: Hoàng Linh



 {name} - {time}

 Trả lời

{body}
 {name} - {time}
{body}

0 bình luận

Ý kiến của bạn sẽ được biên tập trước khi đăng. Vui lòng gõ tiếng Việt có dấu

Địa phương

Xem thêm TP.Thanh Hóa

Thời tiết

Chia sẻ thông tin với bạn bè!
Tắt [X]