Cõng “ngoại ngữ” lên non
Với ngành giáo dục, đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai là một bước chuyển dài. Nhưng với các thầy, cô giáo vùng cao, nơi học trò còn chật vật với tiếng Việt thì đó thực sự là một cuộc leo núi gian nan nhưng không thể dừng bước.

Tiết học tiếng Anh của cô Vi Thị Nự, Trường Tiểu học Quang Chiểu 2 trở nên sinh động hơn nhờ việc sử dụng video và hình ảnh minh họa.
Sinh ra tại xã biên giới Quang Chiểu, tuổi thơ của Vi Thị Nự gắn với những nếp nhà ven triền đồi, tiếng suối róc rách đêm ngày và những buổi theo mẹ lên nương từ khi trời còn mờ sương. Mãi đến khi vào cấp 3, Nự mới có cơ hội tiếp xúc với tiếng Anh. Từ những bài giảng trên lớp đến các đoạn hội thoại phát ra từ chiếc đài cũ, Nự lặng lẽ học từng chữ. Dần dần, niềm yêu thích lớn thành khát vọng, thôi thúc cô theo đuổi con đường sư phạm để mang tiếng Anh về quê hương.
Năm 2013, sau khi tốt nghiệp ngành Sư phạm tiếng Anh, Trường Đại học Hồng Đức, Nự trở về địa phương, bắt đầu công tác tại Trường Tiểu học Tây Tiến, xã Mường Lý. Nự hiểu rằng để gieo được một ngôn ngữ mới, trước hết phải chạm được vào sự hồn nhiên của trẻ nhỏ. Từ đó, cô linh hoạt đưa ngữ pháp vào các giai điệu quen thuộc, biến từ vựng thành trò chơi và biến những câu chào đơn giản thành niềm vui mỗi buổi sáng. Cô dùng tiếng Việt để giải thích, tiếng Mông để thu hẹp khoảng cách và tiếng Anh để mở ra cho các em một chân trời khác. Nhờ vậy, sự rụt rè ban đầu dần tan biến, thay vào đó là ánh mắt tự tin khi các em cất lên những câu tiếng Anh đầu tiên.
Năm 2020, cô chuyển về giảng dạy tại Trường Tiểu học Quang Chiểu 2, xã Quang Chiểu. Con đường dạy tiếng Anh nơi vùng biên vẫn như ngày đầu, lớp học nhỏ, học trò ít nói... Cô vừa dạy, vừa tự tìm tòi ứng dụng công nghệ trong soạn bài, sử dụng video minh họa để tiết học sinh động, dễ hiểu hơn. Nhờ sự đổi mới phương pháp, học sinh của cô tiến bộ rõ nét. Trong 3 năm (2022, 2023, 2024), cô Nự liên tục được công nhận là giáo viên dạy giỏi cấp huyện (huyện Mường Lát cũ). Đến năm 2025, cô tiếp tục đạt danh hiệu giáo viên dạy giỏi cấp tỉnh.
Hành trình đưa tiếng Anh lên vùng biên còn là nỗ lực bền bỉ của nhiều giáo viên từ miền xuôi đã rời quê ngược núi, ngược đèo gắn bó với các địa phương miền núi trong tỉnh. Ví như thầy Lê Anh Dũng, quê xã Sao Vàng, hiện đang công tác tại Trường Tiểu học Trung Lý 2. Nhà trường có 5 điểm lẻ và 1 điểm chính, trong đó 2 điểm Tà Cóm và Pa Búa cách điểm trường trung tâm khoảng 15km. Trong điều kiện ấy, giáo viên phải chia ca, luân phiên đến từng điểm trường để giảng dạy. Nhưng theo thầy Dũng, trở ngại lớn nhất không nằm ở đường núi hiểm trở, mà ở khoảng cách ngôn ngữ của học trò. “Các em sống chủ yếu trong bản, ít có cơ hội giao tiếp nên tiếng Việt còn hạn chế. Khi thầy giảng, nhiều em không hiểu hết, việc tiếp thu vì thế chậm hơn rất nhiều. Với học sinh người Mông vốn ít nói, e dè, việc học tiếng Anh càng thêm khó” - thầy Dũng chia sẻ.
Để tạo môi trường giao tiếp tiếng Anh, trong mỗi tiết học, thầy Dũng ưu tiên sử dụng các mẫu câu đơn giản và quen thuộc. Từ những lời chỉ dẫn như “Let’s go”, “Give me the ruler, please” đến các câu khen ngợi: “Good job!”, “Well done!”, “Great!”, thầy dùng lặp lại để học sinh nghe nhiều thành quen. Thầy còn lồng ghép những câu miêu tả gắn với tình huống thực tế như “It’s cold today”, “Look at the brown dog!”, “This ice cream is yummy!” - những mẫu câu ngắn, dễ hiểu, dễ phản hồi với trẻ vùng cao. Theo thầy, điều quan trọng nhất là tạo sự thoải mái giữa thầy và trò, để tiếng Anh trở thành một phần tự nhiên trong lớp học.
Tại các điểm trường Lìn và Pa Búa, nơi không có máy chiếu, tivi hay thiết bị kết nối trực tuyến, những giờ tiếng Anh của thầy Dũng diễn ra linh hoạt, ngẫu hứng. Bản đồ, quả địa cầu, băng cassette... được thầy tự chuẩn bị; còn bất cứ loài cây, con vật hay vật dụng nào quanh bản cũng trở thành giáo cụ minh họa. “Ban đầu, tôi cho các em làm quen từ những điều đơn giản nhất, những từ đơn lẻ; vừa dạy vừa chơi. Thiết bị thiếu nên tôi phải dùng nhiều hành động, cử chỉ để các em hiểu bài” - thầy Dũng nói.
Theo thầy Đỗ Minh Thủy, Phó Hiệu trưởng Trường Tiểu học Trung Lý 2, những năm gần đây, chất lượng dạy và học tiếng Anh ở xã biên giới Trung Lý đã có chuyển biến tích cực, dù xuất phát điểm còn thấp. Học sinh chủ yếu là con em đồng bào Mông, Thái... nên việc tiếp cận ngoại ngữ vô cùng khó khăn. Tuy vậy, với sự nỗ lực của giáo viên và sự hỗ trợ của nhà trường, các em đã mạnh dạn hơn, biết giao tiếp những câu tiếng Anh đơn giản và yêu thích môn học. Qua mỗi bài học, kỹ năng nghe - nói - đọc - viết được rèn luyện từng bước.
Trong kỷ nguyên hội nhập và chuyển đổi số, tiếng Anh được xem như một “hạ tầng mềm” quan trọng của phát triển. Nghị quyết số 71-NQ/TW của Bộ Chính trị xác định năng lực ngoại ngữ là một trong những đột phá chiến lược nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Trên cơ sở đó, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã trình Chính phủ Đề án “Đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai trong trường học giai đoạn 2025-2035, tầm nhìn đến năm 2045”, đánh dấu bước chuyển từ tư duy “học để thi” sang “học để dùng”, phù hợp với yêu cầu thời đại.
Dù điều kiện còn thiếu thốn, mỗi ngày các thầy cô nơi thượng nguồn sông Mã vẫn bền bỉ vượt dốc, băng rừng, mang theo mong muốn giản dị mà lớn lao “cõng” thế giới lên với bản làng.
Bài và ảnh: Tăng Thúy





Bình luận
Xin vui lòng gõ tiếng Việt có dấu