Đồng bộ giải pháp bảo vệ môi trường tại Khu Kinh tế Nghi Sơn và các khu công nghiệp
Trong bối cảnh các khu kinh tế và khu công nghiệp (KCN) ngày càng giữ vai trò động lực phát triển, vấn đề bảo vệ môi trường trở thành yêu cầu sống còn đối với địa phương có mật độ công nghiệp lớn như Thanh Hóa. Tại Khu Kinh tế Nghi Sơn (KKTNS) và các KCN, áp lực môi trường gia tăng nhanh chóng đòi hỏi hệ thống quản lý phải vận hành hiệu quả, chặt chẽ và có tầm nhìn dài hạn nhằm bảo đảm mục tiêu phát triển xanh - bền vững.

Hội thảo khoa học giải pháp tổng thể xử lý các vấn đề môi trường trong KKTNS và các KCN.
Theo thống kê, KKTNS và các KCN có gần 450 cơ sở sản xuất công nghiệp hoạt động, chiếm hơn nửa số cơ sở sản xuất trên địa bàn tỉnh, đóng vai trò tạo động lực tăng trưởng, đóng góp lớn cho ngân sách và giải quyết việc làm cho hàng vạn lao động. Tuy nhiên, cùng với sự mở rộng quy mô sản xuất là áp lực ngày càng lớn lên môi trường, đặc biệt tại vùng tập trung nhiều ngành nghề có nguy cơ ô nhiễm cao như lọc hóa dầu, luyện kim, xi măng, nhiệt điện và dệt nhuộm. Những thách thức này cho thấy bảo vệ môi trường không chỉ là yêu cầu pháp lý theo Luật Bảo vệ môi trường 2020, mà còn là yếu tố quyết định để bảo đảm tiến trình phát triển công nghiệp theo hướng bền vững.
Nhìn lại thời gian qua có thể thấy công tác quản lý môi trường tại KKTNS và các KCN đã đạt nhiều kết quả quan trọng. 100% cơ sở thuộc đối tượng phải lập báo cáo đánh giá tác động môi trường đã được thẩm định và phê duyệt. Việc chuẩn hóa hồ sơ ngay từ đầu giúp các cơ quan chức năng kiểm soát sớm những nguy cơ phát sinh ô nhiễm. Tiếp đó, nhóm các cơ sở có nguy cơ cao như Nhà máy lọc hóa dầu Nghi Sơn, Nhà máy nhiệt điện Nghi Sơn 1 và 2, Nhà máy xi măng Nghi Sơn, xi măng Đại Dương, hay các nhà máy luyện kim đều đã lắp đặt hệ thống quan trắc tự động và truyền dữ liệu liên tục về Sở Nông nghiệp và Môi trường. Đây là bước tiến quan trọng nhằm nâng cao tính minh bạch và giảm rủi ro xả thải vượt chuẩn.
Không chỉ dừng ở giám sát, nhiều doanh nghiệp đã chủ động đầu tư hệ thống xử lý nước thải, khí thải đạt chuẩn, áp dụng công nghệ sản xuất sạch hơn. Diện tích cây xanh tại các khu chức năng cũng được bảo đảm tối thiểu 10% tổng diện tích, còn tại các cơ sở sản xuất tối thiểu 20%, góp phần cải thiện chất lượng không khí và cảnh quan. Ban Quản lý KKTNS và các KCN tỉnh còn huy động nguồn xã hội hóa để tăng diện tích cây xanh dọc các tuyến đường chưa được bố trí vốn ngân sách, tạo diện mạo xanh hơn cho toàn khu vực.
Song song với đó, hoạt động thanh, kiểm tra được thực hiện theo hướng có trọng tâm, tập trung vào nhóm cơ sở có nguy cơ gây ô nhiễm cao. Giai đoạn 2022-2024, cơ quan chức năng đã xử lý gần 30 trường hợp vi phạm với tổng số tiền phạt hơn 10 tỷ đồng. Hầu hết doanh nghiệp đã đầu tư đầy đủ công trình bảo vệ môi trường, tuy nhiên vẫn còn tình trạng một số cơ sở vận hành không thường xuyên hoặc chưa đúng quy trình, đặc biệt trong việc xử lý chất thải. Dẫu vậy, kết quả quan trắc định kỳ cho thấy môi trường đất, nước mặt và vùng biển ven bờ tại khu vực Nghi Sơn chưa có dấu hiệu ô nhiễm đáng ngại, phản ánh nỗ lực quản lý bước đầu đã mang lại hiệu quả.
Tuy vậy, sự phát triển nhanh của công nghiệp cũng kéo theo những tồn tại cần phải giải quyết. Một số KCN như Hoàng Long, Đình Hương - Tây Bắc Ga vẫn thiếu hạ tầng môi trường đồng bộ, nhất là hệ thống thoát nước mưa, nước thải tách biệt, khu tập kết chất thải rắn và mạng lưới xử lý nước thải tập trung. Một số doanh nghiệp chưa được cấp giấy phép môi trường hoặc còn vi phạm quy định xả thải, cho thấy ý thức tuân thủ pháp luật chưa đồng đều. Những hạn chế này nếu không được xử lý sẽ gây ảnh hưởng lâu dài đến môi trường và đời sống dân cư.
Tại Hội thảo khoa học giải pháp tổng thể xử lý các vấn đề về môi trường trong KKTNS, các KCN được tổ chức vào đầu tháng 11/2025, các chuyên gia, nhà khoa học đều cho rằng: Để giảm thiểu ô nhiễm môi trường tại KKTNS và các KCN thì việc đẩy mạnh tuyên truyền, hỗ trợ doanh nghiệp cập nhật quy định mới là yêu cầu hàng đầu, bởi ý thức và hành động của doanh nghiệp vẫn là yếu tố quyết định. Bên cạnh đó, hoạt động thẩm định đánh giá tác động môi trường cần được siết chặt hơn nữa, đảm bảo dự án chỉ được triển khai khi đã chứng minh đầy đủ phương án bảo vệ môi trường. Việc nghiệm thu hệ thống xử lý chất thải phải là điều kiện bắt buộc trước khi doanh nghiệp vận hành chính thức. Đồng thời, các ngành sản xuất có rủi ro cao cần được yêu cầu ký quỹ phục hồi môi trường để phòng ngừa sự cố.
Hoàn thiện hạ tầng các KCN thiếu đồng bộ là nhiệm vụ tiếp theo, nhằm đảm bảo mọi cơ sở hoạt động trong một hệ thống xử lý chung đạt chuẩn. Việc thu hút các nhà đầu tư hạ tầng KCN cũng cần được thúc đẩy, cùng với ưu tiên phát triển các ngành công nghiệp sạch, ứng dụng công nghệ cao, dự án tái chế, tái sử dụng chất thải và sản xuất sản phẩm thân thiện với môi trường. Đây vừa là xu hướng tất yếu của phát triển bền vững, vừa giúp giảm áp lực cho hệ thống quản lý môi trường chung.
Bên cạnh hoàn thiện hạ tầng, ứng dụng công nghệ thông tin và xây dựng cơ sở dữ liệu môi trường cũng đóng vai trò quan trọng. Việc quản lý theo thời gian thực cho phép phát hiện sớm vi phạm, đồng thời nâng cao tính kết nối giữa Sở Nông nghiệp và Môi trường, Ban Quản lý KKTNS và các KCN tỉnh với chính quyền địa phương. Khi dữ liệu được liên thông và minh bạch, hoạt động giám sát sẽ khách quan và hiệu quả hơn.
Việc tăng cường kiểm tra cũng phải được thực hiện theo nguyên tắc quản lý rủi ro, nghĩa là tập trung vào các ngành nghề có lượng xả thải lớn hoặc nguy cơ sự cố cao. Các hành vi gian lận số liệu quan trắc hoặc xả thải vượt chuẩn cần bị xử lý ở mức cao nhất để tạo tính răn đe. Đặc biệt, hoàn thiện hạ tầng, nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật của doanh nghiệp và tăng cường giám sát là những giải pháp then chốt để bảo đảm môi trường tại KKTNS và các KCN phát triển hài hòa với mục tiêu kinh tế. Khi quản lý được siết chặt và công nghệ được ứng dụng hiệu quả, mục tiêu phát triển xanh- bền vững sẽ trở thành hiện thực.
Bài và ảnh: Trần Hằng





Bình luận
Xin vui lòng gõ tiếng Việt có dấu