Ánh sáng từ “bình dân học vụ số” nơi rẻo cao (Bài 1): Bà con cùng cán bộ học “số”
Nơi rẻo cao biên giới xứ Thanh, phần lớn bà con vùng đồng bào dân tộc thiểu số, dân trí còn hạn chế, nhiều hủ tục vẫn tồn tại, nên những khái niệm “số”, các nền tảng mạng xã hội... gần như xa lạ. Ấy vậy mà, chẳng bao lâu kể từ khi Tổng Bí thư khởi xướng phong trào “bình dân học vụ số”, các xã thành lập tổ công nghệ số ở từng bản làng, xuống từng hộ dân chỉ cách dùng điện thoại, sử dụng các phần mềm... Một sự thay đổi đang dần lan tỏa, không rầm rộ, khoa trương, song nó đang dần bén rễ vững chắc, mở ra cánh cửa tri thức, thay đổi nếp nghĩ, cách làm cho đồng bào vùng cao.

Tổ công nghệ số cộng đồng tuyên truyền cho bà con bản Cá Giáng, xã Trung Lý về “bình dân học vụ số”.
Chuyện ở lớp học “2 trong 1”
Đêm xuống nhanh nơi vùng biên giới heo hút ở bản Cá Giáng, xã Trung Lý. Sau bữa cơm chiều, sương phủ dày khắp núi rừng, những ánh đèn leo lét lại đổ dồn về phía nhà văn hóa của bản. Nơi ấy, một lớp học đặc biệt được mở ra, ban đầu là mục tiêu “xóa mù chữ” cho 32 bà con trong bản, nay lồng ghép thêm nội dung “xóa mù số”. Các chiến sĩ Đồn Biên phòng Trung Lý, đoàn thanh niên, cán bộ bản... trở thành lực lượng nòng cốt kiên nhẫn đồng hành với bà con.
Lớp học có nhiều thành phần, ở nhiều độ tuổi khác nhau. Người đứng lớp, Thiếu tá Hơ Văn Di, cán bộ Đồn Biên phòng Trung Lý không qua trường lớp sư phạm, nhưng bà con “ưng cái bụng”, bảo thầy dạy cái chữ dễ hiểu. Thiếu tá Hơ Văn Di, nói: “Ban đầu cứ nghĩ phải biết cái chữ rồi mới dạy cách dùng điện thoại, “xóa mù số”. Nhưng thực tế nhiều khi ngược lại, có người chưa đọc thông viết thạo nhưng bấm điện thoại thì thoăn thoắt, chụp ảnh, quay video, gọi zalo thành thục. Dạy chữ, dạy công nghệ lồng ghép vào nhau khiến cho lớp học trở nên sôi động, bà con có phần hứng khởi hơn”.
Bà Giàng Thị Mỵ, sinh năm 1968, ở bản Cá Giáng, cầm trên tay chiếc điện thoại với động tác thoăn thoắt. Bà cho biết: “Con cháu nó dạy, rồi cứ bấm nhiều thành quen. Giờ biết cái chữ rồi thì biết mình đang bấm cái gì, nội dung gì. Không sợ lỡ tay nữa”. Còn chị Vàng Thị Dang, sinh năm 1976, không giấu được niềm vui: “Trước đây mình vẫn gọi được cho chồng đi làm ăn xa, nhưng là bấm theo kiểu con nó dạy, dặn sao thì làm vậy, miễn là đầu bên kia hiện cái mặt chồng mình là nói chuyện thôi à. Giờ biết đọc rồi, ai đưa máy lạ cũng mở được. Gõ số, nhập mật khẩu ngày sinh, bấm nút là được ngay”.
Chiếc điện thoại thông minh, từng là “báu vật” cất kỹ trong tủ, giờ đã trở thành công cụ quen thuộc với nhiều bà con vùng cao. Lớp học như mở ra một thế giới khác. Không còn sự ngần ngại, e dè, thay vào đó là ánh mắt háo hức khám phá. Ở góc lớp, cụ bà Vàng Thị Dộng, sinh năm 1947, tay run run mở ứng dụng zalo. Khi khuôn mặt con gái ở đầu bên kia hiện lên, cụ vui như chết lặng khi con gái lên tiếng: “Mẹ biết gọi zalo rồi à? Ai dạy mẹ đấy?”. Tiếng con gái nghẹn ngào khiến cụ cũng bật khóc, đôi mắt ánh lên niềm hạnh phúc không thể giấu. Cụ Dộng chậm lời: “Con gái lấy chồng xa, trước kia chỉ biết nghe, không biết gọi. Giờ học được rồi, nhớ con thì mở ra là thấy nó hiện cái mặt liền”. Còn ông Sùng Seo Sú, sinh năm 1961, người từng tự nhận “mù chữ đến tận già” khi cán bộ đến vận động học cái chữ, nay cũng đã biết lưu số, gọi video cho con trai đi xuất khẩu lao động bên nước ngoài. “Ngày trước chỉ ngồi đợi nó gọi. Giờ thì chủ động gọi cho nó. Thấy mình cũng hiện đại rồi”, ông Sú cười rạng rỡ.
Chứng kiến từ những nét chữ nguệch ngoạc đến những cú chạm màn hình còn vụng về, bà con dần tự tin bước qua cánh cửa mới. Lớp học không chỉ là nơi “gieo chữ”, mà còn là nhịp cầu kết nối gia đình, cộng đồng, vun đắp tình đoàn kết. Ở vùng biên còn nhiều gian khó, từ hành trình “xóa mù chữ” nay lại rộn ràng hành trình “xóa mù số”, hưởng ứng phong trào “bình dân học vụ số” do Tổng Bí thư khởi xướng.
Không sợ khó, chỉ sợ lạc hậu
Câu nói tưởng chừng ngẫu nhiên ấy, nay đã trở thành khẩu hiệu sống của cán bộ và Nhân dân xã vùng biên Trung Lý. Từ khi chính quyền địa phương 2 cấp chính thức đi vào vận hành từ ngày 1/7/2025, cùng với việc đẩy mạnh cải cách hành chính, nhiều thủ tục được triển khai xử lý trực tuyến. Không chỉ người dân, mà chính đội ngũ cán bộ xã, cán bộ cơ sở cũng phải học, phải làm quen. Một lớp học đặc biệt chẳng hẹn ngày bế giảng đã hình thành. Người ta gọi đó là lớp “bình dân học vụ số”. Những ngày đầu, nhiều cán bộ xã vẫn ngỡ ngàng. Họ từng quen với giấy tờ, con dấu, quen việc cầm tập hồ sơ xuống tỉnh. Nay, thay vì đóng dấu đỏ, họ gửi văn bản qua mạng; thay vì di chuyển cả trăm cây số đường rừng để dự họp thì nay ngồi tại xã họp trực tuyến; thay vì ghi chép tay, họ nhập dữ liệu vào máy tính... Ai cũng phải học, với tinh thần “không ai bị bỏ lại phía sau trong chuyển đổi số".

Người dân xã Trung Lý được công an xã hướng dẫn cài đặt VNeID.
Chỉ thời gian ngắn sau khi mô hình chính quyền địa phương 2 cấp đi vào hoạt động, UBND xã Trung Lý đã phê duyệt thành lập 15 tổ công nghệ số cộng đồng tại các bản. Mỗi tổ là một “mắt xích” kết nối giữa công nghệ với đời sống, giữa chủ trương và thực tiễn. Người đứng đầu các tổ là những cán bộ của bản am hiểu tin học, như đoàn viên thanh niên, giáo viên cắm bản, những người vốn gần gũi, thân thuộc với bà con, nay kiêm thêm vai trò thầy, cô công nghệ. Họ hướng dẫn bà con cài ứng dụng VNeID, khai sinh điện tử, tra cứu bảo hiểm y tế, đăng ký tiêm chủng, nộp hồ sơ bảo trợ xã hội... Điều quan trọng hơn, họ giúp người dân hiểu rằng, công nghệ không phải thứ xa xỉ, mà là cầu nối rút ngắn khoảng cách giữa những bản làng xa xôi với trung tâm hành chính.
Anh Phạm Mạnh Hùng, công chức văn hóa - xã hội UBND xã Trung Lý, cho biết, bản thân anh cũng đang phải học, cập nhật nhiều phần mềm dành cho cán bộ quản lý cấp xã. Có thể kể đến như, hệ thống quản lý văn bản và hồ sơ công việc (TDoffice); phần mềm cung ứng dịch vụ công; phần mềm quản lý dân cư và đất đai... Ngoài việc bản thân phải học, anh còn hướng dẫn cho người dân. Anh Hùng cho biết: “Có cụ ông gần 70 tuổi ở bản Táo, tối nào cũng cầm điện thoại gọi zalo cho tôi. Hôm thì hỏi cách tra lịch tiêm chủng cho cháu, hôm lại hỏi cách xóa tin nhắn vì gửi nhầm. Mỗi lần hướng dẫn, tôi lại thấy thương, vì bà con chịu khó học lắm, chỉ cần có người kiên trì đồng hành cùng họ thôi”.
Ở các bản Khằm, Táo hay xa xôi như bản Tà Cóm... những buổi tối cuối tuần không còn vắng lặng như trước. Ánh đèn điện thoại lại sáng lên trong nhà văn hóa. Người ta quây quần bên nhau, vừa cười vừa tập vuốt màn hình. Có người cài xong ứng dụng VNeID, khoe: “Giờ đi đâu cũng có căn cước công dân trong máy, đỡ phải mang theo”. Thanh niên bản thì hứng khởi livestream bán măng khô, thổ cẩm, mật ong rừng... Không khí học “số” cứ thế lan ra một cách âm thầm mà hiệu quả. Công an xã giúp bà con tạo tài khoản định danh điện tử; trạm y tế hướng dẫn đặt lịch khám online; nhân viên ngân hàng chỉ cách mở tài khoản, chuyển tiền không dùng tiền mặt. Các hội đoàn thể đều có nhóm chát chung trên facebook, zalo... để trao đổi công việc, triển khai thông tin, chia sẻ hình ảnh hoạt động.
Có những tối mưa rả rích, bản làng chìm trong sương dày, anh Hùng cùng các đoàn viên vẫn mang laptop lên nhà văn hóa hướng dẫn bà con. Điện chập chờn, họ phải soi đèn pin làm việc, nhưng chẳng ai kêu ca. Anh bảo: “Công nghệ mà không đến được vùng sâu thì chuyển đổi số vẫn chỉ nằm trên giấy. Phải có người đem nó về bản, như cách thầy cô năm xưa cõng chữ đến con em đồng bào”. Những hình ảnh người cán bộ cúi sát bên cụ già chỉ cách đăng nhập, đứa trẻ reo lên khi thấy bà nội vuốt được màn hình, giản dị mà xúc động. Nó gợi nhớ tinh thần của những lớp “bình dân học vụ” sau Cách mạng Tháng Tám, chỉ khác rằng hôm nay, “con chữ” đã hóa thành biểu tượng công nghệ.
Ông Trần Văn Thắng, Chủ tịch UBND xã Trung Lý, nhìn nhận: “Phong trào “bình dân học vụ số” không của riêng ai. Cán bộ hay người dân đều phải học, vì nếu không học sẽ bị tụt lại phía sau. Phong trào học “số” còn mở ra sự thay đổi trong tư duy sản xuất. Người trồng keo, trồng sắn biết tra cứu giá thị trường, tránh bị ép giá. Những người làm thổ cẩm đăng ảnh sản phẩm lên mạng, có khách đặt hàng tận dưới xuôi. Mỗi cú chạm điện thoại là một cơ hội mới mở ra cho người dân, rộng hơn là tương lai vùng biên. Không chỉ người dân, cán bộ xã cũng trưởng thành từ phong trào “bình dân học vụ số”. Từ chỗ ngại mở máy, giờ ai cũng có thể xử lý hồ sơ, gửi báo cáo điện tử, điều phối nhóm zalo của bản. Họ vừa là người hướng dẫn, vừa là người học cùng. Chính cái học cùng nhau ấy tạo nên sức lan tỏa, một tinh thần học hỏi tự nhiên, không cần mệnh lệnh hành chính.
Bài và ảnh: Đình Giang
Bài 2: Khi người dân vùng biên “lên sóng” làm giàu





Bình luận
Xin vui lòng gõ tiếng Việt có dấu