Hành trình đổi thay của phụ nữ Mông
Ở vùng núi phía Tây của tỉnh có những đổi thay không khởi đầu từ những công trình lớn, mà bắt đầu từ sự dịch chuyển âm thầm trong nếp nghĩ của người phụ nữ Mông. Một lá đơn xin thoát nghèo, một quyết định không lấy chồng sớm... đang tạo nên hành trình đổi thay nơi các bản làng vùng cao.

Cô giáo Hơ Thị Dợ, Trường Tiểu học Sơn Thủy (xã Sơn Thủy), cùng các em học sinh người Mông trong buổi sinh hoạt, biểu diễn văn nghệ tại trường.
Chiều muộn ở bản Pom Khuông, xã Tam Chung, sương lảng bảng trước hiên nhà, chị Hơ Thị Mị đi kiểm tra đàn bò sinh sản của gia đình. Bốn con bò sinh sản - là tài sản lớn nhất của gia đình đã về chuồng. Ít ai biết rằng, chỉ vài năm trước gia đình chị vẫn thuộc diện hộ nghèo, cuộc sống quanh quẩn với ruộng nương, vốn liếng hay kế hoạch làm ăn là những khái niệm rất xa lạ. “Ngày trước tôi sợ vay vốn không trả được, sợ làm không nên. Phụ nữ chỉ biết theo chồng thôi”, chị Mị tâm sự.
Ở Pom Khuông và nhiều thôn, bản người Mông khác ở khu vực miền núi, biên giới tỉnh Thanh Hóa, những câu chuyện giống trường hợp của chị Mị không hiếm. Thiếu thông tin, sản xuất manh mún, cùng những hủ tục như tảo hôn, tư tưởng trọng nam khinh nữ, khiến phụ nữ quen lùi sâu phía sau bếp núc. Họ hiếm khi bàn chuyện làm ăn hay quyết định việc lớn trong gia đình. Sự im lặng ấy kéo dài qua nhiều thế hệ, cho đến ngày các buổi truyền thông cộng đồng bắt đầu gõ cửa từng bản. Thông qua Dự án 8 - “Thực hiện bình đẳng giới và giải quyết những vấn đề cấp thiết đối với phụ nữ và trẻ em”, chị Mị và nhiều phụ nữ trong bản Pom Khuông được nghe, được hỏi, được nói về những điều trước đó tưởng như không phải việc của mình. Những thay đổi trong nhận thức ấy dần chuyển thành hành động cụ thể. Từ những buổi truyền thông, chị mạnh dạn đứng tên vay 50 triệu đồng từ ngân hàng chính sách xã hội để mua bò sinh sản. Cán bộ hướng dẫn cách trồng cỏ, tiêm phòng, chăm sóc đàn bò. Có người bảo chị liều, nhưng chị chỉ cười và nói mình không làm thì nghèo mãi.
Cuối năm 2023, đàn bò phát triển tốt. Đầu năm 2024, gia đình chị làm đơn xin thoát nghèo. Với một phụ nữ Mông, đó không chỉ là thay đổi về kinh tế, mà là một bước vượt qua chính mình, vượt nỗi sợ, vượt thói quen cũ, vượt cả những định kiến bám rễ lâu đời. Đồng thời là tín hiệu cho thấy một nếp nghĩ mới đang hình thành ở Pom Khuông.
Nếu câu chuyện của chị Mị là hành trình thoát nghèo từ thay đổi tư duy sản xuất, dám nghĩ, dám làm, thì ở bản Cá Nọi, xã Pù Nhi, cô giáo người Mông Hơ Thị Dợ lại đi qua hành trình giữ con chữ trước sức nặng của hủ tục tảo hôn và hôn nhân cận huyết.
Những năm còn là học sinh, khi nhiều bạn bè cùng trang lứa lần lượt nghỉ học để lấy chồng, Dợ vẫn ngày ngày băng rừng đến lớp. “Có lúc gia đình cũng giục, vì con gái lớn rồi. Nhưng tôi nghĩ, nếu mình bỏ học thì cả đời chỉ quanh quẩn trong bản”, Dợ kể. Chính suy nghĩ ấy giúp cô kiên định với con đường học tập. Lớn lên trong chính những ràng buộc của hủ tục, Dợ hiểu rõ sức nặng của nó hơn ai hết. Từ thuở nhỏ, cô đã nghe đi nghe lại lời dặn như một thứ luật bất thành văn của bản là người Mông phải lấy người Mông, con gái lớn thì phải lấy chồng sớm. Với Dợ, nếu chấp nhận buông xuôi, con đường phía trước sẽ sớm bị chặn đứng ngay từ ngưỡng cửa tuổi trẻ.
Khi còn học THPT, Dợ được đứng vào hàng ngũ của Đảng. Với một phụ nữ Mông ở vùng cao, đó không chỉ là niềm tự hào, mà còn là lời nhắc nhở về trách nhiệm, phải làm điều gì đó để những đứa trẻ trong bản không lặp lại vòng đời bỏ học, lấy chồng sớm như thế hệ trước. Tốt nghiệp đại học, Dợ chọn trở về công tác tại Trường Tiểu học Sơn Thủy, ở lại với núi rừng để bám lớp, bám trò. Cũng tại đây, cô gặp và yêu Phạm Văn Đức, chàng trai người Kinh. Đám cưới của Dợ được tổ chức theo nếp sống mới, văn minh và gọn nhẹ.
Từ Pom Khuông đến Cá Nọi, từ lá đơn xin thoát nghèo đến quyết định nói không với tảo hôn, hành trình đổi thay của phụ nữ Mông ở vùng cao Thanh Hóa đang diễn ra lặng lẽ mà bền bỉ. Khi người phụ nữ dám thay đổi nếp nghĩ, cách làm, bản làng cũng từng bước chuyển mình, không ai bị bỏ lại phía sau.
Bài và ảnh: Tăng Thúy





Bình luận
Xin vui lòng gõ tiếng Việt có dấu