Một số giải pháp phát huy vai trò của giảng viên Trường Chính trị trong nghiên cứu, vận dụng nghị quyết, quy định mới của Đảng vào giảng dạy
Với vị trí là trung tâm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của các tỉnh, thành phố, trường chính trị giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong việc chuyển hóa đường lối, chủ trương của Đảng thành nhận thức, kỹ năng và hành động cụ thể. Trong đó, đội ngũ giảng viên là nhân tố quyết định chất lượng, hiệu quả của quá trình ấy.

Giảng viên Trường Chính trị tỉnh Thanh Hóa tham gia Hội thi giảng viên dạy giỏi cấp trường năm 2025.
Trong quá trình triển khai thực hiện các nghị quyết, hệ thống trường chính trị các tỉnh, thành phố giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong việc cụ thể hóa, truyền tải và vận dụng chủ trương, đường lối của Đảng vào thực tiễn thông qua công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Giảng viên trường chính trị chính là chủ thể trực tiếp đảm nhiệm trọng trách này - họ không chỉ truyền đạt nội dung nghị quyết, mà còn giúp học viên nắm vững ý nghĩa, mục tiêu, quan điểm chỉ đạo và phương thức vận dụng nghị quyết vào công tác thực tế ở địa phương, cơ sở.
Do đó, yêu cầu cập nhật, nghiên cứu, vận dụng các nghị quyết, các văn bản trong tình hình mới đối với đội ngũ giảng viên trường chính trị càng trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết; đây vừa là trách nhiệm nặng nề, vừa là nhiệm vụ vẻ vang của đội ngũ giảng viên trường chính trị trong giai đoạn hiện nay.
Vai trò đó được thể hiện qua các nội dung sau đây:
Cầu nối giữa nghị quyết của Đảng và hoạt động thực tiễn cơ sở
Trong hệ thống đào tạo cán bộ của Đảng, giảng viên trường chính trị giữ vị trí then chốt, là “cầu nối” đưa tinh thần, nội dung và giá trị của nghị quyết đi từ lý luận đến hành động thực tiễn. Không chỉ dừng lại ở việc truyền đạt văn bản, giảng viên còn có nhiệm vụ “chuyển hóa” nghị quyết thành nhận thức chính trị, thái độ công vụ và kỹ năng hành động cụ thể cho cán bộ, đảng viên.
Thông qua các bài giảng, thảo luận chuyên đề, giảng viên giúp người học hiểu sâu sắc ý nghĩa, mục tiêu, quan điểm chỉ đạo của Đảng; từ đó hình thành niềm tin, bản lĩnh và phương pháp tổ chức thực hiện nghị quyết ở cơ sở.
Có thể nói, giảng viên trường chính trị là lực lượng trực tiếp góp phần biến tinh thần của nghị quyết thành sức mạnh thực tiễn, tạo nên tính lan tỏa và hiệu lực của các chủ trương, đường lối trong đời sống chính trị - xã hội.
Chủ thể nghiên cứu, cập nhật và hệ thống hóa tri thức mới
Mỗi nghị quyết, quy định mới của Đảng là kết tinh của trí tuệ, tầm nhìn chiến lược và là kết quả tổng kết thực tiễn sâu sắc. Vì vậy, để truyền đạt một cách khoa học, chuẩn xác, giảng viên cần không ngừng nghiên cứu, nắm vững tinh thần cốt lõi và điểm mới trong từng văn kiện. Quá trình nghiên cứu ấy vừa là yêu cầu nghề nghiệp, vừa là quá trình tự bồi dưỡng, tự hoàn thiện về năng lực lý luận và phương pháp giảng dạy.
Giảng viên trường chính trị cần có khả năng đọc - hiểu nghị quyết ở tầm lý luận, đồng thời, biết “chuyển hoá” ngôn ngữ chính trị thành tri thức dễ tiếp nhận, gắn với bối cảnh địa phương và nhiệm vụ của người học. Việc chủ động cập nhật, hệ thống hóa các điểm mới giúp giảng viên làm chủ tri thức, không chỉ giảng “đúng”, mà còn giảng “trúng” - đúng tinh thần chỉ đạo của Đảng, trúng với yêu cầu đổi mới công tác cán bộ, quản lý, phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, cơ sở.
Ở tầm sâu hơn, nghiên cứu nghị quyết còn là cơ sở để giảng viên phát triển tư duy phản biện, năng lực phát hiện vấn đề và đề xuất giải pháp mới - những phẩm chất không thể thiếu trong đào tạo lý luận chính trị hiện nay.
Người chuyển hóa nghị quyết thành tri thức và kỹ năng thực hành
Một bài giảng lý luận chính trị chỉ thực sự có sức sống khi nó phản ánh được hơi thở của đời sống và mang tính định hướng hành động. Giảng viên trường chính trị cần vận dụng tư duy sư phạm sáng tạo để chuyển tải nghị quyết của Đảng thành những tri thức, kỹ năng thực hành, gắn với công việc hằng ngày của cán bộ cơ sở. Mỗi bài giảng vì thế trở thành “cầu nối” giữa lý luận và hành động, giúp học viên hình thành năng lực thực hành chính trị, kỹ năng xử lý tình huống công vụ và tư duy đổi mới trong công tác lãnh đạo, quản lý. Nói cách khác, giảng viên không chỉ dạy “cái biết”, mà còn rèn “cái làm” - biến nghị quyết thành kỹ năng vận dụng sáng tạo trong thực tiễn.
Người định hướng tư duy chính trị, đạo đức và phong cách lãnh đạo
Nghị quyết của Đảng không chỉ chứa đựng những định hướng phát triển kinh tế - xã hội mà còn thể hiện sâu sắc giá trị tư tưởng, đạo đức và phương pháp lãnh đạo của Đảng. Do đó, mỗi bài giảng lý luận chính trị là một kênh giáo dục tư tưởng, là môi trường để bồi dưỡng bản lĩnh, củng cố niềm tin và hình thành phong cách lãnh đạo của cán bộ. Qua từng chuyên đề, giảng viên phải khơi dậy ở học viên tinh thần trách nhiệm, ý thức kỷ luật, lòng trung thành với lý tưởng của Đảng, đồng thời xây dựng thái độ công vụ chuẩn mực - “có tâm, có tầm”, “gần dân, hiểu dân, vì dân”. Đây chính là giá trị nhân văn sâu sắc của công tác giảng dạy lý luận chính trị, nơi giảng viên không chỉ truyền đạt tri thức, mà còn góp phần hình thành nhân cách chính trị của người cán bộ, công chức, viên chức trong giai đoạn mới.
Người lan tỏa tri thức và thực hành phản biện khoa học
Trong thời đại chuyển đổi số và hội nhập quốc tế sâu rộng, giảng viên trường chính trị không chỉ là người “truyền đạt tri thức có sẵn”, mà phải là nhà nghiên cứu, nhà phản biện chính sách. Thông qua hoạt động nghiên cứu khoa học, nghiên cứu thực tế, tổng kết thực tiễn, tham gia các hội nghị, hội thảo, giảng viên góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn của địa phương, đồng thời phản ánh trung thực hơi thở của cuộc sống vào bài giảng. Các công trình nghiên cứu, sáng kiến, đề tài khoa học của giảng viên vừa là minh chứng cho năng lực chuyên môn và là kênh tham mưu hữu ích giúp cấp ủy, chính quyền địa phương hoạch định chủ trương, chính sách phù hợp. Nhờ vậy, giảng viên trở thành “nhân tố lan tỏa tri thức”, góp phần thúc đẩy đổi mới tư duy, nâng cao năng lực lãnh đạo và quản lý trong hệ thống chính trị ở cơ sở.
Từ việc phân tích các vai trò trên nhận thấy, giảng viên trường chính trị không đơn thuần là người giảng dạy, mà là người "truyền lửa" lý tưởng, người tạo động lực đổi mới, người lan tỏa tri thức của Đảng. Khi đội ngũ giảng viên thực sự chuẩn mực về phẩm chất, sâu sắc về tri thức, sáng tạo trong phương pháp, thì nghị quyết của Đảng sẽ không còn là những dòng chữ khô cứng, mà trở thành hành động cụ thể, hiệu quả, sinh động trong thực tiễn đời sống. Đó chính là con đường ngắn nhất và hiệu quả nhất để “đưa nghị quyết của Đảng vào cuộc sống” - một nhiệm vụ chiến lược, lâu dài, nhưng cũng là sứ mệnh vẻ vang của mỗi giảng viên trường chính trị hiện nay.
Để thực hiện hiệu quả các vai trò trên, đội ngũ giảng viên trường chính trị cần thực hiện đồng bộ một số giải pháp sau:
Thứ nhất, chủ động nghiên cứu, cập nhật thường xuyên và gắn chặt với thực tiễn địa phương.
Đây là giải pháp có tính nền tảng, quyết định chất lượng và chiều sâu của hoạt động giảng dạy lý luận chính trị. Mỗi giảng viên cần coi việc nghiên cứu, cập nhật nghị quyết, quy định mới của Đảng là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục chứ không chỉ là hoạt động theo chu kỳ học tập nghị quyết.
Giảng viên phải chủ động tiếp cận thông tin chính thống, để nắm bắt kịp thời tinh thần, quan điểm mới. Song song với đó, cần liên hệ, đối chiếu nghị quyết với điều kiện cụ thể của địa phương, cơ sở, như chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, các chương trình trọng điểm, nghị quyết của Tỉnh ủy, HĐND tỉnh... Việc “bản địa hóa” nội dung nghị quyết sẽ giúp bài giảng vừa có tính lý luận, vừa phản ánh hơi thở của thực tiễn địa phương.
Thứ hai, đổi mới nội dung, phương pháp và hình thức giảng dạy theo hướng hiện đại, tương tác và ứng dụng công nghệ số.
Nội dung giảng dạy cần được cập nhật linh hoạt, tích hợp những điểm mới của nghị quyết, quy định vào từng môn học, chuyên đề phù hợp với đối tượng học viên. Giảng viên phải chuyển từ cách giảng “truyền thụ một chiều” sang giảng dạy tương tác, lấy người học làm trung tâm, khuyến khích học viên tư duy, phản biện và vận dụng.
Phương pháp giảng dạy cần đa dạng, kết hợp giữa thuyết trình - thảo luận - tình huống - dự án - mô phỏng thực tế. Đặc biệt, với các chuyên đề về đổi mới quản lý nhà nước, cải cách hành chính, chuyển đổi số, giảng viên nên tích hợp công nghệ số và trí tuệ nhân tạo (AI) để minh họa và tương tác, giúp học viên tiếp cận trực quan hơn. Các nền tảng học tập trực tuyến (LMS), video bài giảng... có thể được áp dụng linh hoạt nhằm tăng cường khả năng tự học và mở rộng thời gian học ngoài lớp.
Đổi mới phương pháp không chỉ làm cho bài giảng sinh động, hấp dẫn, mà quan trọng hơn, giúp học viên hình thành năng lực tư duy phản biện, năng lực phân tích chính sách và vận dụng nghị quyết vào công việc cụ thể.
Thứ ba, gắn chặt lý luận với thực tiễn và đẩy mạnh nghiên cứu khoa học, tổng kết thực tiễn địa phương.
Một trong những tiêu chí quan trọng đánh giá chất lượng giảng viên trường chính trị là mức độ gắn kết giữa lý luận và thực tiễn. Giảng viên cần chủ động khai thác các tình huống, mô hình, bài học thực tế từ địa phương để minh họa, làm phong phú nội dung bài giảng. Ví dụ, khi giảng về Nghị quyết số 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân, có thể phân tích trường hợp cụ thể của các doanh nghiệp ở tỉnh Thanh Hóa, từ đó rút ra vấn đề quản lý nhà nước, chính sách hỗ trợ, phát triển bền vững.
Song song với giảng dạy, giảng viên cần tích cực nghiên cứu khoa học, viết bài, tham gia đề tài, tổng kết mô hình hay, cách làm mới trong việc triển khai nghị quyết của Đảng ở địa phương. Các kết quả nghiên cứu ấy vừa là cơ sở lý luận, vừa là chất liệu thực tiễn bổ sung cho bài giảng, giúp bài học luôn “sống”, “thật” và gần với thực tế công tác của học viên. Do đó, yêu cầu trong hoạt động nghiên cứu khoa học của trường chính trị cần tổ chức thường xuyên các diễn đàn, tọa đàm chuyên môn, sinh hoạt khoa học nội bộ nhằm trao đổi, thảo luận, chia sẻ kinh nghiệm giữa các khoa, bộ môn, tạo môi trường học thuật năng động giúp giảng viên liên tục được làm mới tri thức; đồng thời, cần có nhiều cơ chế hỗ trợ, khuyến khích giảng viên tham gia nghiên cứu, công bố khoa học, xây dựng “ngân hàng tình huống”, “kho dữ liệu học liệu địa phương” phục vụ cho công tác đào tạo, bồi dưỡng.
Thứ tư, phát triển năng lực toàn diện và phẩm chất chính trị vững vàng của mỗi giảng viên.
Con người là yếu tố trung tâm quyết định chất lượng đào tạo và bồi dưỡng cán bộ. Vì vậy, việc xây dựng đội ngũ giảng viên trường chính trị phải được coi là nhiệm vụ chiến lược, có tính lâu dài và bền vững. Giảng viên cần chủ động, không ngừng tự học, tự nghiên cứu, nâng cao trình độ lý luận chính trị, chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng sư phạm, năng lực công nghệ số, cũng như khả năng phân tích, xử lý tình huống thực tiễn. Bên cạnh việc nâng cao trình độ, giảng viên phải thường xuyên rèn luyện bản lĩnh chính trị, đạo đức nghề nghiệp, phong cách nêu gương, tinh thần cầu thị và ý thức phục vụ. Mỗi giảng viên cần coi việc học tập, nghiên cứu và rèn luyện là yêu cầu thường xuyên của nghề nghiệp, gắn trách nhiệm của bản thân với uy tín và chất lượng của nhà trường.
Bên cạnh đó, nhà trường cần đẩy mạnh công tác chuẩn hóa và chuyên môn hóa đội ngũ, trong đó chú trọng quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng giảng viên trẻ, xây dựng đội ngũ kế cận có trình độ cao, tâm huyết với nghề; đồng thời, kết hợp chặt chẽ giữa đào tạo lý luận và nghiên cứu thực tiễn, khuyến khích giảng viên đi thực tế ở cơ sở, tham gia đề tài khoa học cấp bộ, cấp tỉnh, cấp trường; tham gia các hội đồng, các diễn đàn khoa học ở các trường chuyên nghiệp trên địa bàn, qua đó, tích lũy kinh nghiệm, nâng cao năng lực tư duy và khả năng vận dụng lý luận vào thực tiễn.
Thứ năm, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo và tạo điều kiện của cấp ủy, chính quyền và cơ quan chủ quản đối với đội ngũ giảng viên trường chính trị.
Để nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên trường chính trị, trước hết cần có sự quan tâm chỉ đạo thường xuyên, sâu sát của Tỉnh ủy, Ban Tuyên giáo và Dân vận Tỉnh ủy, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh trong việc định hướng nội dung đào tạo, bồi dưỡng và nghiên cứu khoa học. Cấp ủy, Ban Giám hiệu trường chính trị cần cụ thể hóa các chủ trương, nghị quyết của Trung ương và của tỉnh thành kế hoạch hành động rõ ràng, gắn với từng giai đoạn phát triển, phù hợp với đặc thù của đội ngũ giảng viên. Bên cạnh đó, cần tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, hạ tầng công nghệ thông tin, hệ thống học liệu điện tử và thư viện số, đáp ứng yêu cầu đổi mới phương pháp giảng dạy hiện đại. Có cơ chế hỗ trợ giảng viên tham gia các lớp bồi dưỡng chuyên sâu trong và ngoài tỉnh, khuyến khích hợp tác nghiên cứu, trao đổi học thuật với các trường chính trị bạn và các cơ sở đào tạo đại học, viện nghiên cứu trong và ngoài tỉnh. Đồng thời, thực hiện chính sách đãi ngộ, khen thưởng xứng đáng đối với những giảng viên có đóng góp nổi bật trong nghiên cứu, biên soạn tài liệu, ứng dụng đổi mới phương pháp giảng dạy. Việc tạo môi trường học thuật dân chủ, cởi mở, khuyến khích giảng viên sáng tạo và mạnh dạn đổi mới trong giảng dạy, nghiên cứu là yếu tố then chốt để xây dựng đội ngũ giảng viên có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức trong sáng và năng lực chuyên môn toàn diện.
Tóm lại, việc nghiên cứu, vận dụng nghị quyết, quy định mới của Đảng vào giảng dạy có ý nghĩa sâu sắc cả về lý luận và thực tiễn và giảng viên trường chính trị tỉnh, thành phố giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong việc thực hiện. Thông qua từng bài giảng, góp phần làm cho các chủ trương, đường lối của Đảng trở nên gần gũi, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ vận dụng; giúp học viên chuyển hóa lý luận thành năng lực hành động, góp phần nâng cao hiệu quả công tác lãnh đạo, quản lý và thực thi công vụ ở cơ sở. Để phát huy vai trò đó, đội ngũ giảng viên cần không ngừng đổi mới tư duy, cập nhật tri thức, nâng cao năng lực nghiên cứu, giảng dạy và tổng kết thực tiễn; đồng thời, giữ vững bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, tinh thần nêu gương và ý thức phục vụ. Khi đội ngũ giảng viên trường chính trị thật sự chuẩn mực về phẩm chất, vững vàng về chuyên môn, sáng tạo trong phương pháp, thì nghị quyết của Đảng sẽ không chỉ dừng lại ở văn bản, mà được cụ thể hóa sinh động trong từng bài giảng, từng lớp học, từng hành động của người cán bộ ở cơ sở, đó chính là cách thiết thực nhất để đưa nghị quyết của Đảng thấm sâu vào đời sống, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức và hành động, góp phần xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới./.
ThS. Nguyễn Thị Hạnh
Trường Chính trị tỉnh Thanh Hóa
Tài liệu tham khảo
Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập I, II, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
Bộ Chính trị (2024–2025), Các Nghị quyết số 57-NQ/TW, 59-NQ/TW, 66-NQ/TW, 68-NQ/TW, 70-NQ/TW, 71-NQ/TW, 72-NQ/TW.
Ban Bí thư Trung ương Đảng (2023), Quy định số 100-QĐ/TW về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của Trường Chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Hà Nội.
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2023), Tài liệu bồi dưỡng giảng viên lý luận chính trị, Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội.
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2022), Đổi mới công tác giảng dạy, nghiên cứu lý luận chính trị trong bối cảnh mới, Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội.
Ban Tuyên giáo Trung ương (2024), Hướng dẫn học tập, quán triệt và triển khai thực hiện các nghị quyết của Bộ Chính trị năm 2024–2025, Hà Nội.
Nguyễn Phú Trọng (2023), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
Trần Văn Phòng (2023), “Nâng cao chất lượng nghiên cứu và giảng dạy nghị quyết của Đảng ở các trường chính trị tỉnh”, Tạp chí Giáo dục lý luận, số 9/2023, tr. 22–28.
Ghi chú:
(1) Bộ tứ nghị quyết trụ cột của Bộ Chính trị năm 2024-2025:
- Nghị quyết số 57-NQ/TW (22/12/2024) về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia;
- Nghị quyết số 59-NQ/TW (24/01/2025) về hội nhập quốc tế trong tình hình mới;
- Nghị quyết số 66-NQ/TW (30/4/2025) về tiếp tục đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật;
- Nghị quyết số 68-NQ/TW (04/5/2025) về phát triển kinh tế tư nhân trở thành động lực quan trọng của nền kinh tế.
(2) Các nghị quyết quan trọng khác:
- Nghị quyết số 70-NQ/TW (15/6/2025) về xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, ngang tầm nhiệm vụ;
- Nghị quyết số 71-NQ/TW (20/7/2025) về chiến lược phát triển giáo dục và đào tạo trong thời kỳ mới;
- Nghị quyết số 72-NQ/TW (01/8/2025) về đổi mới, nâng cao chất lượng công tác tư tưởng, lý luận và báo chí trong tình hình mới.





Bình luận
Xin vui lòng gõ tiếng Việt có dấu