(Baothanhhoa.vn) - Tên gọi Tây Đô gợi lên hình dung về vùng đất của những vang động lịch sử, lấp lánh tinh hoa văn hóa ngàn năm. Trên mảnh đất ấy không chỉ có Di sản Văn hóa thế giới Thành Nhà Hồ mà mỗi tấc đất, ngọn núi, dòng sông, mỗi di tích lịch sử - văn hóa - tâm linh đều lắng đọng hồn dân tộc...

Vùng đất của những vang động lịch sử, lấp lánh văn hóa

Tên gọi Tây Đô gợi lên hình dung về vùng đất của những vang động lịch sử, lấp lánh tinh hoa văn hóa ngàn năm. Trên mảnh đất ấy không chỉ có Di sản Văn hóa thế giới Thành Nhà Hồ mà mỗi tấc đất, ngọn núi, dòng sông, mỗi di tích lịch sử - văn hóa - tâm linh đều lắng đọng hồn dân tộc...

Vùng đất của những vang động lịch sử, lấp lánh văn hóa

Chùa Linh Giang bên dòng sông Mã.

“Năm Đinh Sửu (1397), mùa xuân, tháng Giêng, Quý Ly sai Lại bộ thượng thư kiêm Thái sử lệnh Đỗ Tỉnh (có sách chép là Mẫn) đi xem đất và đo đạc động An Tôn phủ Thanh Hóa, đắp thành đào hào, lập miếu xã, mở đường phố, có ý muốn dời kinh đô đến đó. Tháng 3 thì công việc hoàn tất” - Mộc bản sách Đại Việt sử ký toàn thư, quyển 8 có những dòng ghi chép khái quát về lịch sử xây dựng Thành An Tôn - Thành Nhà Hồ. Sự kiện trọng đại ấy đã tạo nên những biến chuyển sâu sắc của vùng quê “cuối nước đầu non”, đưa vùng đất này trở thành trung tâm chính trị cả nước.

Lần theo thư tịch cổ và kết quả khai quật, khảo sát di sản cho thấy, Thành Nhà Hồ lúc bấy giờ được quy hoạch xây dựng rất bài bản, quy mô. Trong đó, phía ngoài 4 cửa thành là các phố xá nhộn nhịp bán buôn, đô hội... Phố phường sầm uất một thời của kinh đô nay chỉ còn là quá vãng, thay vào đó là sự hiện diện của những ngôi làng truyền thống. Bên tòa thành đá, hàng chục ngôi làng truyền thống phân bố ở vùng đệm và vùng phụ cận như chứng nhân của lịch sử. Những cái tên làng Xuân Giai, Tây Giai, Đông Môn, Thổ Phụ, Phương Giai... đã trở thành điểm kết nối, tham quan không thể bỏ qua trong hành trình về với vùng đất Tây Đô, về với Thành Nhà Hồ. Mỗi ngôi làng ôm ấp trong lòng biết bao giá trị, ẩn chứa trong những công trình, kiến trúc, trong mỗi nếp nhà, phong tục, tập quán,... được tiếp nối và trao truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác.

Về miền Tây Đô, du khách không chỉ được thỏa sức thưởng ngoạn cảnh sắc thiên nhiên tươi đẹp, khám phá Thành Nhà Hồ, tòa thành kiến trúc đá “độc nhất vô nhị”, kiệt tác bằng đá kỳ vỹ nhất Đông Nam Á, đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới hay thăm thú các ngôi làng cổ quần tự dưới chân thành. Đất Tây Đô như một miền tín ngưỡng - tâm linh đặc sắc với hệ thống các di tích đình, đền, chùa, đàn tế... độc đáo.

Nằm cách Thành Nhà Hồ khoảng 2,5km về phía Đông Nam, cách TP Thanh Hóa khoảng 45km về phía Tây Bắc theo Quốc lộ 45, đàn tế Nam Giao nằm ở xã Cao Mật xưa, nay thuộc thị trấn Vĩnh Lộc. Đàn tế có diện tích khoảng hơn 2ha, lưng tựa Đốn sơn (núi Đún), tiền án là “cánh đồng Nam Giao”, được xây dựng trên 5 cấp nền cao dần lên tính từ chân Đốn sơn, cấu trúc theo dạng hình chữ nhật, quay hướng Nam. Ở vị trí cao nhất, chính giữa đàn tế là khối đá xanh lớn hình tròn tạo thành viên đàn với đường kính 4,75m, bao quanh bằng những bức tường đá hình vuông theo quan niệm trời tròn, đất vuông. Bên cạnh đó còn phát hiện dấu tích kiến trúc của các cấp nền bao như: nền thượng, nền trung, nền hạ... Đàn tế Nam Giao là công trình tôn giáo quan trọng bậc nhất của triều Hồ, hằng năm tiến hành lễ tế trời, cầu cho quốc thái, dân an hoặc lễ tế vào những dịp đại xá thiên hạ.

Trên vùng đất Tây Đô, những cái tên như đền thờ nàng Bình Khương, chùa Linh Giang, chùa Nhân Lộ, đền Tam Tổng, chùa Tường Vân (chùa Giáng)... dệt nên bao sắc màu văn hóa - tâm linh.

Ngôi chùa Tường Vân (chùa Giáng) tọa lạc dưới chân núi Đún. Sự hình thành của ngôi chùa gắn liền với sự tích vua Trần trên đường thân chinh mang quân đi đánh giặc Chiêm Thành, qua khu vực núi Đún, thấy cảnh sắc tươi đẹp hữu tình, núi sông bao bọc liền cho quân dựng trại qua đêm. Trong chập chờn giấc ngủ, nhà vua mộng thấy có dải mây vàng ẩn hiện, cho là điềm lành nên lập đàn tế trời đất. Quả nhiên sau đó, nhà vua xuất binh, đánh thắng quân giặc. Khải hoàn trở về, vua mở yến tiệc khao thắng trận, sai quần thần về núi Đún lễ tạ và sắc lệnh cho bản dân lập một ngôi chùa nhỏ ở ngay khu vực tế lễ năm xưa, đặt tên chùa là Tường Vân (chùa Giáng).

Theo thời gian, chùa Tường Vân đã có nhiều thay đổi so với ban đầu nhưng không làm mất đi nét đẹp trong kiến trúc, cảnh quan. Cổng tam quan bề thế, gồm 2 tầng mái, tầng hai được sử dụng làm gác chuông. Tầng hai có 5 cửa cuốn vòm, cửa giữa cao 3,7m, hai bên cửa thấp dần xuống theo chiều mái cổng chồng diêm, với 8 vùng uốn cong, tổng cộng có 14 đòn đao theo thứ tự từ thấp lên cao làm tăng vẻ bề thế cho công trình. Hai cột nanh hình khối vuông xây ốp vào bên hông cổng. Những mảng chạm khắc ở tam quan này mang hình rồng mẫu tử, linh thú,... Bước qua cổng tam quan, đi về phía lưng chừng núi là khu phật điện, nhà mẫu. Điều đặc biệt, tất cả trong chùa Tường Vân đều trong tư thế ngồi thiền, trên tòa sen gồm 3 lớp cánh sen được chạm khắc tinh xảo. Dạo bước trong không gian chùa, du khách như đang bước vào thế giới tâm linh thanh tịnh, trong lành, rũ bỏ mọi muộn phiền, hướng đến điều thiện.

Cách Thành Nhà Hồ 1,5km về phía Tây, ngôi chùa thiêng có tên gọi Linh Giang lưng tựa vào núi, mặt hướng về phía con sông Mã êm đềm nước chảy, nằm ngay gần với dãy núi An Tôn - một trong những công trường khai thác đá xây Thành Nhà Hồ. Linh Giang có nghĩa là “sông linh” hay “sự linh thiêng của một dòng sông”. Do đó, ngôi chùa không chỉ mang vẻ đẹp của non nước mà còn là chốn tâm linh, thanh tịnh mang ý niệm về sự che chở, bảo hộ của thần, phật cho cuộc sống người dân nơi đây. Hiện nay chưa có một tài liệu cụ thể xác định niên đại xây dựng chùa, tất cả chỉ được lưu truyền trong dân gian. Về quy mô, kiến trúc, trước đây chùa Linh Giang được xây dựng trên một diện tích đất khá rộng, bề thế gồm 4 dãy nhà; chùa có gác chuông lớn, liền với gác chuông là tháp... Nơi đây ghi dấu nhiều sự kiện lịch sử gắn với hai cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc. Đây là một trong những điểm dừng chân thú vị trên hành trình tham quan các di tích tâm linh dọc sông Mã (vùng đệm di sản).

Với sức sống, giá trị lịch sử - văn hóa riêng có, không ngừng được bảo tồn và phát huy hiệu quả, Tây Đô không chỉ là quá khứ mà còn là hiện tại, tương lai...

Bài và ảnh: Thảo Linh



 {name} - {time}

 Trả lời

{body}
 {name} - {time}
{body}

0 bình luận

Ý kiến của bạn sẽ được biên tập trước khi đăng. Vui lòng gõ tiếng Việt có dấu

Địa phương

Xem thêm TP.Thanh Hóa

Thời tiết

Chia sẻ thông tin với bạn bè!
Tắt [X]