(Baothanhhoa.vn) - “Dù ai đi ngược về xuôi/ Nhớ ngày giỗ Tổ mùng mười tháng ba”. Từ lâu, câu ca dao ấy đã thấm đẫm, ăn sâu vào tiềm thức người dân đất Việt. Dẫu có đi đâu, về đâu, mỗi người vẫn luôn mang theo niềm tự hào sâu sắc về nguồn cội “con rồng, cháu tiên”, “con Lạc, cháu Hồng” chảy trong huyết mạch. Trong cái niềm tự hào chảy suốt mấy nghìn năm lịch sử ấy, Vua Hùng đã được suy tôn là Quốc tổ, trở thành biểu tượng tôn quý cho tinh thần yêu nước, đại đoàn kết dân tộc và nét đẹp văn hóa, tín ngưỡng người Việt.

Tin liên quan

Đọc nhiều

Vua Hùng trong đời sống văn hóa, tín ngưỡng người Việt

“Dù ai đi ngược về xuôi/ Nhớ ngày giỗ Tổ mùng mười tháng ba”. Từ lâu, câu ca dao ấy đã thấm đẫm, ăn sâu vào tiềm thức người dân đất Việt. Dẫu có đi đâu, về đâu, mỗi người vẫn luôn mang theo niềm tự hào sâu sắc về nguồn cội “con rồng, cháu tiên”, “con Lạc, cháu Hồng” chảy trong huyết mạch. Trong cái niềm tự hào chảy suốt mấy nghìn năm lịch sử ấy, Vua Hùng đã được suy tôn là Quốc tổ, trở thành biểu tượng tôn quý cho tinh thần yêu nước, đại đoàn kết dân tộc và nét đẹp văn hóa, tín ngưỡng người Việt.

Vua Hùng trong đời sống văn hóa, tín ngưỡng người Việt

Đền Hổ Bái (xã Yên Trường) – nơi thờ thần Hợp Lang, người con thứ 11 của Vua Hùng.

Nhắc đến Vua Hùng là mở ra “thiên tình sử” của nước Việt ta giữa chàng Lạc Long Quân và nàng Âu Cơ. Nàng Âu Cơ khi hạ sinh một bọc phá ra trăm trứng, mỗi trứng nở ra một cậu con trai, “mỗi cậu bé càng lớn càng thêm tuấn tú, mỹ lệ khác thường, oai dũng, thông minh mẫn tiệp, trí tuệ toàn vẹn, mọi người đều sợ phục cho là những anh em phi thường”. Câu chuyện tình đặc biệt ấy không chỉ được lưu lại trong truyền thuyết mà được ghi chép trong nhiều chính sử.

Sách Đại Việt sử ký toàn thư viết: Lạc Long Quân tên húy là Sùng Lãm, con của Kinh Dương vương. Vua lấy con gái của Đế Lai là Âu Cơ, sinh ra trăm con trai (tục truyền sinh trăm trứng), là tổ của Bách Việt. Một hôm vua bảo Âu Cơ rằng: “Ta là giống rồng, nàng là giống tiên, thủy hỏa khắc nhau, chung hợp thật khó”. Bèn từ biệt nhau, chia 50 con theo mẹ về núi, 50 con theo cha về ở miền Nam (có bản chép là về Nam Hải), phong cho con trưởng là Hùng Vương, nối ngôi vua. Hùng Vương lên ngôi, đặt quốc hiệu là Văn Lang, đóng đô ở Phong Châu (Phú Thọ). Nước Văn Lang có Đông giáp biển Nam Hải, Tây đến Ba Thục, Bắc đến hồ Động Đình, Nam giáp nước Hồ Tôn, chia nước làm các bộ, phủ, như: Giao Chỉ, Chu Diên, Vũ Ninh, Phúc Lộc, Việt Thường, Ninh Hải, Dương Tuyền, Lục Hải, Vũ Định, Hoài Hoan, Cửu Chân, Bình Văn, Tân Hưng, Cửu Đức... Bộ Văn Lang là nơi Hùng Vương đóng đô.

Từ cội nguồn thiêng liêng ấy cùng với công đức vô lượng trải dài suốt 18 đời, Vua Hùng đã được các thế hệ người dân nước Việt suy tôn là Quốc tổ. Hình tượng Vua Hùng đã gắn chặt với hồn thiêng sông núi đất Việt, gắn với các thế hệ cháu con nước Việt không chỉ bởi ánh hào quang của lịch sử, mà đó chính là sự phản chiếu hình ảnh của ông vua mở nước, gắn kết lòng người bằng huyết tộc và hai tiếng đồng bào thiêng liêng. Từ sự suy tôn, ngưỡng vọng ấy, tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương đã hình thành, phát triển với sức sống bền bỉ cho đến hôm nay và muôn đời sau.

Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương là một loại hình tín ngưỡng dân gian có từ lâu đời, là hình thức phát triển cao từ tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt. Tín ngưỡng này chủ yếu được thực hiện ở các di tích thờ các nhân vật tiêu biểu, liên quan đến thời kỳ Hùng Vương. Tín ngưỡng thờ cúng Vua Hùng không chỉ thể hiện niềm thành kính, nhất tâm hướng về nguồn cội dân tộc. Mà hơn hết, nó là minh chứng sinh động, thuyết phục về “lòng yêu nước nồng nàn”, tinh thần “thượng tôn dân tộc”. Tín ngưỡng thờ cúng Vua Hùng có mặt ở nhiều nơi trên khắp dải đất hình chữ S này. Trong đó, Khu Di tích lịch sử Đền Hùng và lễ hội Đền Hùng (Giỗ Tổ Hùng Vương) được tổ chức vào ngày 10-3 (âm lịch) hằng năm tại Phú Thọ là trung tâm tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương, đã trở thành lễ hội lớn nhất của cả nước. Vào ngày Giỗ Tổ Hùng Vương, đông đảo các thế hệ cháu con người Việt cùng về đây, nhất tâm bái lạy, thắp nén hương thơm dâng lên Quốc tổ bằng tất cả lòng biết ơn, kính trọng. Lễ hội Đền Hùng trong tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương đã đạt đến đỉnh cao của sự thăng hoa để trở thành ngày hội non sông, ngày hội của toàn dân, thể hiện lòng tôn kính đối với các bậc tổ tiên và từ đó nêu cao hơn nữa lòng tự hào dân tộc và gắn kết cộng đồng. Với những giá trị sâu sắc về văn hóa, lịch sử, ngày 6-12-2012, tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.

Là mảnh đất “địa linh nhân kiệt”, nơi lắng đọng tinh hoa văn hóa ngàn năm, xứ Thanh hiện vẫn còn lưu lại nhiều dấu ấn đậm nét về thời kỳ Hùng Vương, đặc biệt là các di tích, lễ hội tiêu biểu, độc đáo liên quan đến tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương.

Vua Hùng trong đời sống văn hóa, tín ngưỡng người Việt

Nét cổ kính, trầm mặc, sơn thủy hữu tình của đền Đồng Cổ (Yên Định). Ảnh: N.L

Dấu ấn thời kỳ Hùng Vương trên đất xứ Thanh không thể không nhắc đến ngôi đền Đồng Cổ (Yên Định). Ngôi đền linh thiêng, trầm mặc bên bờ sông Mã được tưới tắm tự ngàn đời bằng những câu chuyện huyền thoại, thần tích, truyền thuyết, dã sử gắn liền với những câu chuyện về thần Đồng Cổ, vị thần có công lớn đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Cuốn Linh tích núi Tam Thai do Hà Văn Giác phiên âm, dịch nghĩa từ nguyên bản chữ Hán “Tam Thai sơn linh tích” của Lam Kiều Nguyễn Dật Sảng có kể: “Vua Hùng thứ nhất theo đường núi vào dẹp loạn Hồ Tôn ở phương Nam, khi ngang qua đây đã nghỉ quân ở chân núi thôn Khả Lao, nay là làng Đan Nê, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa có nằm mộng gặp thần núi. Từ thời Hùng Vương, trải qua lịch sử các triều đại Tiền Lê, Lý, Trần – Hồ, Hậu Lê vẫn ghi lại những công trạng phò vua giúp nước, dẹp giặc ngoại xâm của thần Đồng Cổ thông qua các lần linh ứng hiển linh báo mộng. Về phần chiếc trống đồng – vật gắn liền với những câu chuyện về thần Trống đồng, theo Linh tích núi Tam Tai có đoạn viết: “Trước kia, ở miếu thờ có 1 trống đồng, tương truyền là vật cổ từ thời vua Hùng, mặt trống có đường tròn 1 thước 5 tấc (0,6m), cao hai thước (0,8m), rỗng lòng không đáy, giữa mặt trống có chỗ lõm như rốn bụng, vành mép ngoài nối liền chữ Triện, bốn bên có dây xoắn hình chữ Vạn, chữ lâu đời bị mòn, xoa xát cũng không rõ, xung quanh mặt chỉ còn vân hoa như hoa đẩu; núm có lỗ hổng bằng hạt đậu. Đó là trống đồng Lạc Việt nổi tiếng”.

Trên mảnh đất Yên Định ấy, ngoài ngôi đền Đồng Cổ ở xã Yên Thọ thì tại xã Yên Bái cũ (nay là xã Yên Trường), đền Hổ Bái cũng được biết đến là nơi lưu giữ những dấu ấn đậm nét về thời kỳ Hùng Vương với sức sống hàng nghìn năm tuổi. Đền thờ thần Hợp Lang, người con thứ 11 của Vua Hùng, “có tên kiêng húy là Hợp Lang tước, xưng là tướng văn lạc hầu, trấn trị ở phủ Hoài Hoan”. Địa chí xã Yên Bái, ngọc phả làng Hổ Bái cho biết: Trong một lần ngao du, ngược dòng sông Mã, đến đất Trang Trân Bái, thấy cảnh sắc tươi đẹp, thanh bình, lại có “sông nước linh thiêng, trong lành, hình sông thế núi uyển chuyển với dải đất anh linh trọng yếu” nên đã kêu gọi dân chúng khắp nơi tới lập ấp, lập làng sinh sống và cho xây dựng một ngôi đền thờ, chính là vị trí đền Hổ Bái bây giờ. Sau khi hoàn tất công việc, Lạc hầu quay về thủy cung (vào ngày 4-4). Từ đó hằng năm, ngày 4-4 được chọn làm ngày dâng hương lễ tế, kỷ niệm ngày mất của thần Hợp Lang. Cũng theo sử sách ghi chép lại, liên quan đến đền Hổ Bái, ngoài sự kiện thần Hợp Lang về cho xây dựng đền thì vẫn còn sự kiện quan trọng và ý nghĩa khác. Đó là trong một lần Bà Trưng về đền cầu anh linh Vua Hùng phù hộ để diệt giặc ngoại xâm bảo vệ bờ cõi. Lời khấn cầu linh ứng, Hai Bà Trưng cùng nghĩa quân đã đánh tan quân giặc. Ngay sau đó, Hai Bà về đất Trang Trân Bái mở hội ăn mừng trong một tháng và hạ lệnh tu sửa đền thờ ngay sau đó.

Vua Hùng trong đời sống văn hóa, tín ngưỡng người Việt vừa là biểu tượng quyền uy, tôn quý nhưng cũng thật chân thực, gần gũi. Bởi người chính là tổ tiên của Bách Việt ta đó; mỗi người dân nơi này đều có chung dòng máu “con Lạc, cháu Hồng”. Vì lẽ đó, chẳng cần những giáo lý cao siêu, tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương vẫn có sức sống bền bỉ, trở thành nét đẹp truyền thống của dân tộc ta, ghi danh vào danh sách di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại, được tiếp nối và trao truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác như mạch nguồn văn hóa thăm thẳm, bao la. Vua Hùng và tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương là điểm tựa tinh thần, tạo nên sức mạnh đại đoàn kết dân tộc đưa Việt Nam tiến bước trên con đường hội nhập và phát triển, đúng như Bác Hồ từng căn dặn: “Các Vua Hùng đã có công dựng nước/ Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”.

Nguyên Linh


Nguyên Linh

 {name} - {time}

 Trả lời

{body}
 {name}- {time}
{body}

0 bình luận

Ý kiến của bạn sẽ được biên tập trước khi đăng. Vui lòng gõ tiếng Việt có dấu

Địa phương

Xem thêm TP.Thanh Hóa

Thời tiết

Chia sẻ thông tin với bạn bè!
Tắt [X]