Theo dấu chân của cha...
Mỗi sáng sớm khi tiếng kẻng báo thức vang lên, nhìn qua những vệt nước chảy loang trên tấm kính cửa sổ, Tuấn thấy bên ngoài sương đặc quánh như bát bột sắn ai quấy trên chảo lửa.
Minh họa: Hải Anh
Trong làn sương trắng ẩn hiện những bóng người, dù không nhìn thấy mặt nhưng Tuấn vẫn biết trong đó có bố Mai qua tiếng hô vang đếm nhịp cho bài tập thể dục buổi sáng. Mới đó mà đã ba mùa đông trôi qua Tuấn ở cùng với các bố. “Đồn là nhà, biên giới là quê hương” câu khẩu hiệu năm nào Tuấn còn lạ lẫm giờ đã quen thuộc nằm lòng.
*
Năm đó, mùa đông lạnh tê tái, gió sắc như lưỡi dao cứa vào da thịt buốt đến tận xương. Ngọn lửa giữa nhà phập phồng ngả nghiêng theo từng cơn gió thổi xuyên qua vách đất căn nhà tường trình cũ nát. Hai mẹ con Tuấn ôm nhau nằm co ro trên nền đất trải tạm mớ lá khô mục, căn nhà trống huơ trống hoác mơ hồ và hoang hoải như cuộc đời hai mẹ con Tuấn kể từ ngày bố mất.
Tuấn vẫn nhớ như in buổi sáng tháng ba đặc quánh sương mù ấy. Bố trở dậy từ rất sớm, lục đục sửa soạn mấy vật dụng quen thuộc vào chiếc ba lô đã cũ sờn, thắt lưng đeo con dao quắm, chuẩn bị cho chuyến đi rừng. Mẹ vội vã chuẩn bị mấy gói cơm nắm với muối để gọn gàng trong góc ba lô. Chiếc đèn pin trong tay bố hất ánh sáng vàng vọt lẫn trong lớp sương dày. Mẹ con Tuấn đứng nép bên cửa nhìn theo bóng bố mờ dần rồi mất hẳn. Mẹ Tuấn quỳ gối, chắp tay cúi lạy về phía núi mong thần núi xót thương ban cho gia đình chút lộc rừng và che chở cho bố Tuấn bình an vô sự. Nhưng có lẽ lời khẩn cầu ấy chẳng đến được với thần núi nên bố Tuấn đi mãi chẳng trở về. Vách đá trơn trượt đã cướp mất của Tuấn người bố vĩnh viễn.
Sau khi lo tang lễ cho bố xong hai mẹ con đùm túm nhau về nhà ông bà ngoại để sống. Căn nhà và những ký ức về bố nặng như hòn đá đè nặng tâm trí của mẹ con Tuấn khiến không khí trong nhà lúc nào cũng u ám, sầu não.
Mẹ Tuấn quyết định về ngoại còn bởi nhà đã chẳng có gì để ăn được nữa. Ông bà ngoại của Tuấn cách 3 quả đồi, hai mẹ con đi từ lúc trời vừa sáng đến khi nhá nhem là tới. Ông bà ngoại đông con, lắm cháu nên nhà cũng chẳng có dư giả gì, các anh chị em mỗi người góp nắm gạo, san túm ngô đỡ đần cho mẹ con Tuấn qua cơn bĩ cực. Trong căn nhà dựng tạm ngay trên khu đất của ông bà, hai mẹ con lay lắt quấn túm lấy nhau qua những mùa xuân hiu hắt.
Từ ngày bố mất, mẹ Tuấn như một người khác, bà ít cười và lặng lẽ giống pho tượng. Chiều chiều, bà thường đăm chiêu nhìn về hướng căn nhà cũ, hai hàng nước mắt chảy tràn từ hốc mắt sâu hoắm của người đàn bà mới ngoài ba mươi, lăn dài trên gương mặt rười rượi. Nhẽ ra bằng tuổi Tuấn những đứa trẻ khác đã làm anh của vài ba đứa em rồi. Nhưng sau lần sinh Tuấn, nắm lá thuốc từ ông thầy mo chẳng những không khiến vết thương mau lành mà còn tước luôn cơ hội tiếp tục được sinh con của mẹ. Đời mẹ chìm trong mịt mù sương lạnh.
Tuấn lo nếu cứ tiếp tục như vậy, mẹ sẽ ngã qụy, mẹ sẽ đi tìm bố Tuấn và bỏ lại nó một mình vò võ trong căn nhà trống.
Nhưng không, người đổ gục trước lại là nó. Đầu tiên là những cơn ho, từng cơn từng cơn như muốn xé nát cuống họng non nớt của đứa trẻ 6 tuổi, bóp nghẹt lồng ngực khiến Tuấn không thể thở được. Tiếp theo đó là sốt, những cơn sốt kéo đến miên man khiến nó dần mất nhận thức. Giữa những cơn mê, lần nào mở mắt Tuấn cũng thấy mẹ ngồi cạnh, mái tóc bà rũ rượi còn đôi mắt đỏ hoe. Mẹ cầm bát cháo loãng cố gắng đút cho nó từng thìa, từng thìa, dù rất đói nhưng nó chẳng thể nuốt. Những giọt nước mắt tự động chảy ra hai bên má Tuấn, trong cơn mê hình như nó thấy bố về.
Bố luống cuống đến bên Tuấn, bế nó lên và chạy như bay, những bước chân nặng trịch và vội vã làm nó chẳng kịp ngoái lại nhìn mẹ. Khi Tuấn mở mắt ra đã thấy mình nằm trong căn phòng trắng, mẹ ngủ gục nơi đầu giường. Trên tay Tuấn là mớ dây nhợ nhì nhằng được người ta cắm vào. Thấy tiếng động, mẹ cuống cuồng ôm chầm lấy nó khóc nức nở. Tiếng khóc hệt cái ngày hai mẹ con hay tin đã tìm thấy xác bố nơi vách núi, mấy nắm cơm nguội lạnh vẫn nguyên vẹn ở góc ba lô. Thì ra Tuấn vẫn chưa chết, mẹ kể nó đã hôn mê cả đêm.
*
Cái đêm Tuấn mê man, người bế nó là bố Mai. Bố đến thăm nhà, thấy người Tuấn sốt hầm hập và lên cơn co giật, ông đã bế xốc Tuấn chạy một mạch hai tiếng đồng hồ xuống trạm y tế cấp cứu. Sau này Tuấn nghe các bác sĩ kể lại chỉ chậm một vài phút nữa thôi e rằng chẳng có thuốc nào trên đời có thể cứu Tuấn từ tay thần chết. Bữa đó, khi đến trạm y tế, cả người bố Mai ướt đẫm mồ hôi dù trời đang lạnh cắt da, cắt thịt. Sau khi trao Tuấn cho các bác sĩ ông bắt đầu nôn thốc nôn tháo, các bác sĩ phải truyền nước để hồi phục cho bố Mai. Bữa đó mẹ Tuấn cũng hớt hải chạy theo chân người lính biên phòng nhưng phải mất gần 2 tiếng sau bà mới tới nơi.
Tuấn đỡ hơn thì được cho thuốc về uống, các bố mang tới nhà nó gạo thịt và cả tiền. Mẹ Tuấn thấy có người mang gạo, thịt đến tặng thì ngạc nhiên lắm, bà sợ không dám nhận. Phải đến khi trưởng bản giải thích đó là lính biên phòng hỗ trợ cho đồng bào khó khăn bà mới lấy. Và bà chỉ nhận đủ số gạo để ăn hết mùa đông. Dù cả đời chẳng đi đâu xa hơn những ngọn núi, nhưng bà cũng biết cái đạo lý phàm những gì chẳng phải của mình thì không nên tham lam đặc biệt trong thời điểm mùa đông đói kém nhiều nhà cần lương thực như vậy. Đến mùa xuân tiết trời ấm hơn bà sẽ cùng Tuấn bắt đầu lại từ mảnh nương ông bà ngoại cho nên chẳng phải lo đói nữa.
Bố Mai là người nghiêm khắc nhất lúc nào cũng nhắc nhở Tuấn không được chểnh mảng việc học hành, phải chịu khó học tập, rèn luyện sau này còn đỡ đần mẹ. Bố Bình thì ngược lại luôn luôn ân cần và nhẹ nhàng, mỗi buổi tối đều dành thời gian để dạy nó ôn lại bài trên lớp và làm bài tập về nhà. Không một bài toán khó nào mà bố Bình không biết cách giải, thậm chí bố còn giải bằng nhiều cách để Tuấn học hỏi và so sánh. Nhờ có bố Bình kèm cặp nên thành tích của Tuấn lúc nào cũng đứng đầu lớp. Bố Phát với nụ cười thương hiệu lúc nào cũng trực nở trên môi, luôn nghĩ ra rất nhiều trò chơi cho Tuấn và Nam giải trí sau giờ học.
Nam và nó cùng được các bố trong đồn biên phòng nhận làm con nuôi. Nam ít hơn Tuấn một tuổi, so với Nam, Tuấn thấy nó vẫn rất may mắn khi còn có mẹ. Bố mẹ Nam bị đất đá chôn vùi trong vụ sạt lở đất do bão gây nên, bỏ lại nó bơ vơ, cô độc. Ngày ấy nếu không có các bố có lẽ Nam cũng chẳng thể sống tiếp đến bây giờ.
Kể từ đợt đó không chỉ mẹ con Tuấn, mà cả bản đều quý mến hơn những người lính mang quân hàm xanh. Tuấn lên 6 tuổi nhưng chẳng đến trường, cả ngày nó cặm cụi với mẹ trên nương để đỡ đần mẹ những việc lặt vặt. Khi không phải ra đồng nó lại theo chân mẹ vào rừng kiếm chút măng, rau mang xuống chợ bán đổi gạo, thịt sống qua ngày. Dọc đường đi chợ, thi thoảng nó bắt gặp những đứa trẻ bằng tuổi nó tung tăng xách cặp tới trường. Những lần như vậy nó đều ngoảnh mặt lơ đi, khi biết mẹ không để ý tới mình nó mới dám len lén nhìn theo những đứa trẻ. Tuấn cứ nghĩ cuộc đời nó sẽ mãi sống như vậy cho đến ngày các bố biên phòng đến nhà gặp mẹ nó lần nữa.
Một buổi sáng bàng bạc sương. Mấy chú bộ đội đến nhà nói chuyện hồi lâu với mẹ Tuấn. Tuấn ở góc nhà khép nép nghe câu được câu chăng. Chốc chốc liếc nhìn mẹ, Tuấn thấy mắt mẹ hoe đỏ. Mãi cho đến khi một chú trong đội vẫy tay gọi Tuấn lại ngồi cùng, Tuấn mới biết các chú biên phòng muốn được nhận Tuấn làm con nuôi và đưa về đồn để chăm sóc, cũng là để tiện đường đi học. Mẹ Tuấn mắt đỏ hoe, trầm ngâm mãi sau lời đề nghị của người lính. Còn Tuấn thì đã giãy nảy lên không chịu. Nó không muốn phải rời xa mẹ.
Dẫn nó ra ngoài sân trước nhà, mẹ chỉ về phía ngọn núi cao nhất và xa nhất bảo:
- Ngoài kia sẽ còn rất nhiều những ngọn núi cao hơn ngọn núi ở quê mình, con hãy đi ra ngoài khám phá và về đây kể cho mẹ nghe những câu chuyện về cảnh vật, con người và những ngọn núi cao con được gặp. Để làm được điều đó trước tiên con phải học, có cái chữ trong đầu thì cái chân mới không bị trói buộc nơi xó núi này.
Cũng chính từ hôm đấy, Tuấn từ một đứa trẻ mồ côi bố lại có tới ba người bố. Từ đứa con duy nhất trong nhà nó trở thành anh cả khi có đứa em kém một tuổi tên Nam.
Những ngày đầu xa mẹ, đêm nào nằm trong chăn nó cũng khóc vì nhớ và cũng vì không quen với nếp sống trong quân ngũ. Vốn là đứa trẻ của núi rừng, đói thì ăn, buồn ngủ lúc nào thì nằm lăn ra đất là có thể đánh một giấc ngon lành. Vào nếp sinh hoạt của đơn vị, các bố biên phòng rèn luyện và uốn nắn cho nó từ thói quen sinh hoạt đến lời ăn tiếng nói khiến nó bị ngợp. Các bố biết nên cũng động viên, quan tâm nhiều, phải mất hơn ba tháng nó mới dần quen môi trường.
Giờ đây nó với Nam không chỉ hăng say học tập mà còn tăng gia sản xuất cùng các bố, những công việc như tưới rau, nhổ cỏ hay cho gà ăn được hai đứa phân công làm thành thạo. Mỗi khi được thành tích cao trong học tập các bố sẽ thưởng cho hai anh em nó những chuyến đi chơi dưới thành phố, nơi mà nó chưa từng được đến. Thế nhưng phần thưởng lớn nhất với Tuấn là được các bố cho theo đi tuần tra biên giới.
Lần nào cũng vậy, đêm trước đó một hôm, hai anh em không thể nào chợp mắt bởi háo hức. Các bố mặc quân phục nghiêm trang và đeo súng xếp đội hình hàng dọc đi đều tuần tra dọc tuyến biên giới. Theo chân các bố để nhìn ngắm biên cương quê hương lần nào trong Tuấn cũng dạt dào những cảm xúc khó gọi tên. Trong sáng sớm, đất còn đẫm hơi sương in rõ từng dấu chân của các bố, Tuấn theo sau dẫm lên những dấu chân đó để ướm. Nó thấy bàn chân mình nhỏ xíu so với dấu chân phía trước nhưng nó luôn tin rằng một ngày đôi chân sẽ đủ lớn để tiếp bước chân của các bố bảo vệ dải biên cương. Dọc đường tuần tra mùa xuân, hoa đào vẫn nở đỏ thắm. Biên cương bình yên một dải đầy hoa...
Truyện ngắn của Lê Đình Trung
{name} - {time}
-
2025-03-21 10:05:00
Trong dòng chảy lễ hội đầu năm (Bài 2): Gạn đục, khơi trong
-
2025-03-20 19:59:00
Tháng Thanh niên 2025 - tháng của nhiệt huyết, tình nguyện
-
2025-03-20 10:18:00
Phát huy giá trị di tích trên quê hương Hậu Lộc
“Trên đỉnh giời”: Khát vọng sống, khát vọng tự do và khát vọng làm người
Thêm vững niềm tin với Đảng
Hướng tới công bằng cho người học
Gương mặt xuân trong thơ ca Thanh Hóa
Pháo hoa
Hoàng Hạc vươn mình
Tự sự... cùng phố
Mở Đường (Bài 2): Một vòng xứ Thanh qua những tuyến đường động lực, kết nối
Hành trình của một người lính