(Baothanhhoa.vn) - Tại phiên khai mạc đại hội, thay mặt Đoàn chủ tịch, đồng chí Đỗ Minh Tuấn, Phó Bí thư Tỉnh ủy đã trình bày Báo cáo kiểm điểm công tác lãnh đạo, chỉ đạo của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XVIII, tại Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XIX. Báo Thanh Hóa trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.

Báo cáo kiểm điểm công tác lãnh đạo, chỉ đạo của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa khóa XVIII, tại Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XIX

Tại phiên khai mạc đại hội, thay mặt Đoàn chủ tịch, đồng chí Đỗ Minh Tuấn, Phó Bí thư Tỉnh ủy đã trình bày Báo cáo kiểm điểm công tác lãnh đạo, chỉ đạo của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XVIII, tại Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XIX. Báo Thanh Hóa trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.

Báo cáo kiểm điểm công tác lãnh đạo, chỉ đạo của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa khóa XVIII, tại Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XIX

Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa lần thứ XVIII, nhiệm kỳ 2015-2020 bầu Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh gồm 71 đồng chí; tại Hội nghị lần thứ nhất, Ban Chấp hành bầu 18 đồng chí Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, bầu đồng chí Bí thư Tỉnh ủy và 04 đồng chí Phó Bí thư Tỉnh ủy. Trong nhiệm kỳ, có nhiều đồng chí Ủy viên Ban Chấp hành, Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy nghỉ bảo hiểm xã hội, chuyển công tác, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh đã kịp thời kiện toàn; hiện nay Ban Chấp hành có 60 đồng chí, Ban Thường vụ Tỉnh ủy có 15 đồng chí.

Căn cứ Quy chế làm việc, chương trình công tác và bám sát phương châm hành động “Đoàn kết - Kỷ cương - Sáng tạo - Phát triển”, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh đã triển khai thực hiện toàn diện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVIII. Với tinh thần thẳng thắn, cầu thị và trách nhiệm, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh nghiêm túc kiểm điểm công tác lãnh đạo, chỉ đạo trong nhiệm kỳ 2015 - 2020 như sau:

A. NHỮNG ƯU ĐIỂM

I. VỀ TRIỂN KHAI THỰC HIỆN CÁC CHỦ TRƯƠNG, NGHỊ QUYẾT CỦA TRUNG ƯƠNG VÀ NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI ĐẢNG BỘ TỈNH LẦN THỨ XVIII

1. Về triển khai thực hiện các chủ trương, nghị quyết của Trung ương

Thực hiện chỉ đạo, hướng dẫn của Trung ương, Tỉnh ủy đã tổ chức học

tập, quán triệt, triển khai thực hiện kịp thời, đầy đủ, nghiêm túc, sáng tạo các nghị quyết, chỉ thị, kết luận; việc tổ chức học tập, quán triệt có sự đổi mới, thực hiện bằng nhiều hình thức, trực tiếp cho cán bộ chủ chốt cấp tỉnh và trực tuyến đến các sở, ban, ngành, địa phương, cơ sở, để đông đảo cán bộ, đảng viên tham gia học tập. Đã gắn việc tổ chức quán triệt với xây dựng chương trình, kế hoạch hành động, cơ chế, chính sách và phân công trách nhiệm cụ thể cho các cấp, các ngành để sớm đưa các nghị quyết, chỉ thị, kết luận vào cuộc sống. Trong nhiệm kỳ, Tỉnh ủy đã ban hành 61 chương trình, kế hoạch hành động thực hiện các nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Trung ương. Cùng với thực hiện tốt công tác quán triệt, triển khai, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã chỉ đạo các cơ quan chức năng thường xuyên kiểm tra, giám sát, đôn đốc việc thực hiện của các cấp ủy, tổ chức đảng; định kỳ sơ kết, đánh giá kết quả thực hiện, từ đó đề ra các nhiệm vụ, giải pháp để tiếp tục thực hiện đạt kết quả cao hơn; trong đó nhiều nghị quyết đã được Tỉnh ủy triển khai thực hiện với cách làm sáng tạo, đạt kết quả nổi bật, dẫn đầu cả nước.

2. Về triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVIII, nhiệm kỳ 2015 - 2020

Để sớm cụ thể hóa và triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVIII, Tỉnh ủy đã đề ra nguyên tắc, phương châm, lộ trình lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội rất cụ thể; trong từng năm, cùng với lãnh đạo, chỉ đạo toàn diện trên các lĩnh vực, Tỉnh ủy đã xác định nhiệm vụ trọng tâm, trọng điểm để tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện. Theo đó, trong năm 2016, đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng, ban hành, hoàn chỉnh các thể chế mà Nghị quyết Đại hội đề ra; trong nhiệm kỳ đã ban hành 05 chương trình trọng tâm, 04 khâu đột phá, 14 nghị quyết, 24 chỉ thị, 183 kết luận; lãnh đạo, chỉ đạo HĐND tỉnh, UBND tỉnh ban hành và triển khai thực hiện 43 cơ chế, chính sách, để cụ thể hóa và sớm đưa Nghị quyết Đại hội vào cuộc sống. Đó là những định hướng lớn, quan trọng, toàn diện trên tất cả các lĩnh vực, tạo hành lang pháp lý, môi trường và điều kiện thuận lợi để các cấp, các ngành triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội.

Ngay sau khi ban hành các thể chế, Tỉnh ủy đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện quyết liệt các mục tiêu, nhiệm vụ Nghị quyết đề ra. Hằng năm, tiến hành rà soát, đánh giá tình hình thực hiện các chỉ tiêu, nhiệm vụ; năm 2018 tổ chức sơ kết giữa nhiệm kỳ, đánh giá toàn diện, cụ thể kết quả, mức độ thực hiện các chỉ tiêu, nhiệm vụ trong nửa đầu nhiệm kỳ, đặc biệt đã chỉ rõ những hạn chế, yếu kém và nguyên nhân; trên cơ sở đó bổ sung các nhiệm vụ, giải pháp và tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện quyết liệt, cùng với tăng cường kiểm tra, giám sát, quyết tâm thực hiện thắng lợi Nghị quyết; nên đã đạt được kết quả toàn diện, có 26/28 chỉ tiêu chủ yếu Nghị quyết Đại hội đề ra đạt và vượt kế hoạch.

II. VỀ LÃNH ĐẠO PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI, BẢO ĐẢM QUỐC PHÒNG - AN NINH

1. Tỉnh ủy đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo đẩy mạnh phát triển kinh tế, tạo ra tốc độ tăng trưởng cao, vượt mục tiêu Nghị quyết Đại hội

Quán triệt sâu sắc quan điểm “Phát triển kinh tế là trung tâm”, ngay từ đầu nhiệm kỳ, Tỉnh ủy đã chủ động lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng và triển khai thực hiện nhiều chủ trương, giải pháp về quy hoạch, thể chế, cơ chế, chính sách... nhằm khai thác và phát huy hiệu quả tiềm năng, lợi thế của tỉnh để phát triển mạnh các ngành, lĩnh vực; trong đó đặc biệt chú trọng lãnh đạo, chỉ đạo đẩy mạnh thu hút đầu tư, tranh thủ sự quan tâm, giúp đỡ của Trung ương để huy động tối đa các nguồn lực cho phát triển; chủ động khắc phục khó khăn, thách thức do thiên tai, dịch bệnh gây ra; nên kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng cao, vượt mục tiêu Đại hội; thu ngân sách hằng năm luôn vượt dự toán, trong nhóm các tỉnh có tốc độ tăng thu ngân sách nhanh nhất cả nước. Cụ thể như sau:

1.1. Tỉnh ủy đã tập trung rất cao lãnh đạo, chỉ đạo đẩy mạnh thu hút đầu tư, huy động tối đa các nguồn lực cho đầu tư phát triển. Về thể chế, Tỉnh ủy đã ban hành Kết luận số 46-KL/TU, Kết luận số 45-KL/TU. Đồng thời, lãnh đạo, chỉ đạo UBND tỉnh ban hành và triển khai thực hiện Khâu đột phá về "Đẩy mạnh cải cách hành chính, cải thiện mạnh mẽ môi trường đầu tư kinh doanh", Khâu đột phá về "Phát triển nhanh, đồng bộ hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội"; xây dựng, bổ sung các quy hoạch có chất lượng, tầm nhìn, khả thi; sửa đổi, bổ sung, hoàn chỉnh các quy định về đầu tư; ban hành cơ chế, chính sách, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động đầu tư trên địa bàn tỉnh.

Cùng với xây dựng, hoàn thiện hệ thống thể chế, Tỉnh ủy đã lãnh đạo, chỉ đạo đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến đầu tư trong nước và nước ngoài, coi trọng xúc tiến, thu hút đầu tư các dự án lớn để tạo động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của tỉnh; đặc biệt đã lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thành công Hội nghị xúc tiến đầu tư cấp quốc gia năm 2017 và Hội nghị xúc tiến đầu tư cấp tỉnh năm 2020 đạt kết quả cao, tạo thêm nhiều nguồn lực cho kinh tế - xã hội của tỉnh phát triển. Lãnh đạo, chỉ đạo HĐND tỉnh, UBND tỉnh ưu tiên bố trí các nguồn vốn để đầu tư xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng thiết yếu phục vụ triển khai các dự án, nhất là hạ tầng giao thông, cấp điện, cấp nước, hạ tầng khu kinh tế, khu công nghiệp…

Để tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư triển khai dự án trên địa bàn, Tỉnh ủy đã lãnh đạo, chỉ đạo các cấp, các ngành đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, với mục tiêu “4 tăng, 2 giảm, 3 không”; thực hiện quyết liệt công tác giải phóng mặt bằng, với tinh thần "không để dự án chậm triển khai do phải chờ mặt bằng"; chỉ đạo các ngành chức năng bám sát từng dự án để tháo gỡ mọi khó khăn, vướng mắc, tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư triển khai dự án trong thời gian sớm nhất. Hằng năm, Tỉnh ủy đều lãnh đạo, chỉ đạo UBND tỉnh rà soát các dự án đã được chấp thuận chủ trương đầu tư, chấp thuận địa điểm đầu tư trên địa bàn tỉnh để tập trung tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, đôn đốc nhà đầu tư đẩy nhanh tiến độ thực hiện; đồng thời chuẩn bị danh mục các dự án để tổ chức kêu gọi, xúc tiến đầu tư; tạo động lực cho tăng trưởng kinh tế của tỉnh cả trước mắt và lâu dài.

Nhằm huy động thêm nguồn lực cho đầu tư phát triển, Tỉnh ủy đã ban hành Kết luận số 99-KL/TU để UBND tỉnh triển khai thực hiện Đề án huy động thu hút đầu tư theo hình thức đối tác công tư - PPP trên địa bàn tỉnh, giai đoạn 2017 - 2020. Lãnh đạo, chỉ đạo UBND tỉnh tăng cường vận động, thu hút các nguồn vốn ODA, NGO; đổi mới hoạt động đầu tư công theo hướng có trọng tâm, trọng điểm và phân bổ kế hoạch sớm; thực hiện đồng bộ các biện pháp tăng thu ngân sách để tăng thêm nguồn lực cho đầu tư phát triển.

Bằng nhiều biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo đồng bộ, sáng tạo, hiệu quả, từ khâu ban hành chủ trương đến tổ chức thực hiện, nên huy động vốn đầu tư của tỉnh trong giai đoạn 2016 - 2020 đạt cao nhất từ trước đến nay, gấp 1,8 lần giai đoạn 2011 - 2015; thu hút đầu tư nước ngoài trong nhóm các tỉnh dẫn đầu cả nước.

1.2. Để thực hiện mục tiêu xây dựng nền nông nghiệpphát triển toàn diệntheo hướng sản xuất hàng hóa quy mô lớn, có năng suất, chất lượng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh cao, phát triển bền vững, Tỉnh ủy đã ban hành Chương trình phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới, giai đoạn 2016 - 2020; Nghị quyết số 13-NQ/TU về tích tụ, tập trung đất đai; ban hành các Kết luận để HĐND tỉnh, UBND tỉnh triển khai thực hiện chính sách tái cơ cấu ngành nông nghiệp; chính sách khuyến khích tích tụ, tập trung đất đai; thành lập Viện Nông nghiệp Thanh Hóa… Lãnh đạo, chỉ đạo đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi, ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất, thu hút doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp.

Để tiếp tục đẩy mạnh xây dựng nông thôn mới, Tỉnh ủy đã ban hành Kết luận số 63-KL/TU về triển khai thực hiện cơ chế, chính sách xây dựng nông thôn mới tỉnh Thanh Hóa giai đoạn 2016 - 2020; lãnh đạo các ngành chức năng, các địa phương lồng ghép các nguồn vốn, huy động hợp lý nguồn lực trong Nhân dân để xây dựng nông thôn mới. Đến nay, toàn tỉnh có 8 đơn vị cấp huyện hoàn thành xây dựng nông thôn mới; tỷ lệ xã đạt chuẩn nông thôn mới đạt 65,75%, vượt mục tiêu Đại hội và cao hơn mức bình quân chung của cả nước.

1.3. Xác định phát triển công nghiệp là trọng tâm để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của tỉnh; Tỉnh ủy đã ban hành Chương trình phát triển Khu kinh tế Nghi Sơn và các khu công nghiệp giai đoạn 2016 - 2020; ban hành Kết luận để HĐND, UBND tỉnh triển khai chính sách khuyến khích phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và thương mại. Luôn quan tâm theo dõi và tập trung lãnh đạo, chỉ đạo tháo gỡ mọi khó khăn, vướng mắc, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các dự án công nghiệp đẩy nhanh tiến độ thực hiện, sớm hoàn thành và đi vào hoạt động, đặc biệt là các dự án trọng điểm, quy mô lớn; phát triển mạnh các ngành công nghiệp có lợi thế, để tạo ra tăng trưởng đột phá cho ngành công nghiệp và kinh tế của tỉnh.

Lãnh đạo, chỉ đạo ưu tiên vốn ngân sách và huy động các nguồn lực đầu tư xây dựng hạ tầng Khu kinh tế Nghi Sơn và các khu công nghiệp, chuẩn bị mặt bằng để thu hút đầu tư các dự án công nghiệp.

Với sự lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt, hiệu quả, có trọng tâm, trọng điểm của Tỉnh ủy, giai đoạn 2016 - 2020, giá trị sản xuất công nghiệp tăng trưởng đột phá, đóng góp lớn vào tăng trưởng kinh tế của tỉnh.

1.4. Lãnh đạo, chỉ đạo khai thác tiềm năng, thế mạnh phát triển mạnh các ngành dịch vụ có lợi thế. Tỉnh ủy đã ban hành Chương trình phát triển du lịch giai đoạn 2016 - 2020; lãnh đạo, chỉ đạo đẩy mạnh thu hút đầu tư các dự án du lịch có kết cấu hạ tầng hiện đại, đã tạo ra diện mạo mới, sức hấp dẫn mới.

Trong lĩnh vực vận tải - cảng biển, Tỉnh ủy đã ban hành các Kết luận để HĐND tỉnh, UBND tỉnh triển khai thực hiện chính sách hỗ trợ các hãng tàu biển mở tuyến vận chuyển container đi quốc tế qua Cảng Nghi Sơn; chính sách khuyến khích các hãng hàng không mở đường bay mới tại Cảng hàng không Thọ Xuân. Lãnh đạo, chỉ đạo thu hút đầu tư hoàn thiện hệ thống Cảng Nghi Sơn theo quy hoạch, đồng thời cải thiện mạnh mẽ hạ tầng dịch vụ phục vụ cảng biển nhằm thu hút các hãng vận tải biển lớn trong nước và ngoài nước, các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ hậu cần cảng biển đầu tư vào tỉnh.

Trong lĩnh vực thương mại, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo phát triển hệ thống siêu thị, thương mại điện tử, đổi mới mô hình quản lý chợ; nâng cao hiệu quả hoạt động xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường xuất khẩu.

Với sự lãnh đạo, chỉ đạo đồng bộ, hiệu quả của Tỉnh ủy, ngành dịch vụ của tỉnh có nhiều khởi sắc, đặc biệt là các lĩnh vực du lịch, vận tải, xuất khẩu, đóng góp tích cực vào phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.

1.5. Lãnh đạo, chỉ đạo đẩy mạnh phát triển doanh nghiệp để tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội giải quyết việc làm cho lao động. Tỉnh ủy đã ban hành Kết luận số 55-KL/TU về phát triển doanh nghiệp đến năm 2020; tập trung lãnh đạo, chỉ đạo phát triển nhanh số lượng doanh nghiệp gắn với nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh và năng lực cạnh tranh; chỉ đạo UBND tỉnh tổ chức tiếp doanh nghiệp định kỳ hằng tháng để nắm tình hình, kịp thời giải quyết khó khăn, vướng mắc, nhất là về thủ tục hành chính, giải phóng mặt bằng, vốn, hạ tầng..., tạo điều kiện cho doanh nghiệp tổ chức sản xuất, kinh doanh, đặc biệt là những thời điểm khó khăn do dịch bệnh, thiên tai xảy ra. Giai đoạn 2016 - 2020, số doanh nghiệp thành lập mới gấp 2,6 lần giai đoạn 2011 - 2015.

1.6. Cùng với tập trung lãnh đạo, chỉ đạo phát triển kinh tế, Tỉnh ủy đã triển khai thực hiện các nhiệm vụ chiến lược, tạo cơ sở cho sự phát triển lâu dài của tỉnh, như: Đã tập trung xây dựng Đề án và báo cáo Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 58-NQ/TW ngày 05/8/2020 “Về xây dựng và phát triển tỉnh Thanh Hóa đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045". Lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng, hoàn chỉnh các quy hoạch lớn, như: Quy hoạch tỉnh Thanh Hóa thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Quy hoạch mở rộng Khu kinh tế Nghi Sơn lên 106.000ha; Quy hoạch Cảng hàng không Thọ Xuân trở thành cảng hàng không quốc tế... Tiếp tục đẩy mạnh phát triển Khu Kinh tế Nghi Sơn để trở thành một trọng điểm phát triển ở phía Nam của vùng Kinh tế trọng điểm Bắc Bộ và khu vực Bắc Trung bộ…

2. Lãnh đạo, chỉ đạo tạo chuyển biến rõ nét các hoạt động văn hóa - xã hội theo hướng chuẩn hóa và xã hội hóa, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân

- Tỉnh ủy đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng hình ảnh tốt đẹp về Thanh Hóa và người Thanh Hóa; xây dựng văn hóa trong du lịch, văn hóa trong cộng đồng; đồng thời đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi các biểu hiện suy thoái về đạo đức xã hội; huy động các nguồn lực để bảo tồn các di tích lịch sử, văn hóa, cách mạng. Ban hành nhiều chủ trương lãnh đạo, chỉ đạo nâng cao chất lượng các hoạt động thông tin, báo chí. Chỉ đạo UBND tỉnh xây dựng Đề án phát triển thể dục thể thao tỉnh Thanh Hóa. Sau nhiều trăn trở của các thế hệ lãnh đạo và Nhân dân trong tỉnh, Tỉnh ủy đã quyết tâm lãnh đạo, chỉ đạo và xác định năm 1029 là năm xuất hiện Danh xưng Thanh Hóa với tư cách là đơn vị hành chính trực thuộc Trung ương.

- Lãnh đạo, chỉ đạo tiếp tục đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, gắn với phát triển nguồn nhân lực. Tỉnh ủy đã ban hành các Kết luận để HĐND tỉnh, UBND tỉnh triển khai thực hiện cơ chế, chính sách xã hội hóa giáo dục mầm non; chính sách ưu đãi đối với đội ngũ giáo viên, học sinh Trường THPT chuyên Lam Sơn và các trường THPT đạt giải quốc gia, quốc tế và khu vực. Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo giải quyết giáo viên dôi dư; sắp xếp lại hệ thống trường, lớp.

- Để khắc phục tình trạng quá tải tại các bệnh viện công lập, Tỉnh ủy đã ban hành các Kết luận để UBND tỉnh triển khai Đề án thực hiện cơ chế tự chủ tại các bệnh viện công lập; thu hút đầu tư cơ sở vật chất trong các bệnh viện công lập bằng hình thức xã hội hóa theo Nghị quyết số 93/NQ-CP ngày 15/12/2014 của Chính phủ. Đồng thời, chỉ đạo HĐND tỉnh, UBND tỉnh xây dựng, ban hành và triển khai thực hiện các chính sách phát triển y tế, như: Chính sách thu hút bác sĩ về làm việc tại các cơ sở y tế trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa, giai đoạn 2017 - 2020; chính sách hỗ trợ hoạt động và thu hút, đào tạo, cán bộ, giảng viên cho Phân viện Đại học Y Hà Nội tại Thanh Hóa... Đặc biệt, đã lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện kịp thời, quyết liệt, sáng tạo, hiệu quả các biện pháp phòng, chống dịch Covid-19, Thanh Hóa được Trung ương xếp vào nhóm các tỉnh nguy cơ thấp.

- Để khắc phục bức xúc về mất an toàn vệ sinh thực phẩm và ô nhiễm môi trường, Tỉnh ủy đã ban hành Nghị quyết số 04-NQ/TU và Nghị quyết số 05-NQ/TU. Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo ngăn chặn hiệu quả sử dụng chất cấm trong sản xuất nông nghiệp, kiểm soát chặt chẽ việc sản xuất và kinh doanh thực phẩm, xây dựng các mô hình sản xuất thực phẩm an toàn; khắc phục các sự cố ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, ô nhiễm môi trường tại các khu công nghiệp, cụm công nghiệp, ở các đô thị và khu vực nông thôn, nên đã giảm bức xúc trong nhân dân.

- Chú trọng lãnh đạo, chỉ đạo đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất và đời sống. Tỉnh ủy đã chỉ đạo UBND tỉnh ban hành và triển khai thực hiện Khâu đột phá về “Nâng cao năng lực nghiên cứu, ứng dụng và chuyển giao các tiến bộ khoa học - kỹ thuật phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống nhân dân”; ban hành Kết luận để HĐND tỉnh, UBND tỉnh triển khai thực hiện chính sách về phát triển khoa học công nghệ. Chỉ đạo đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ, đặc biệt là trong các lĩnh vực: nông nghiệp, công nghiệp, y tế.

- Để đẩy mạnh giảm nghèo, bảo đảm an sinh xã hội, Tỉnh ủy đã ban hành và triển khai thực hiện Chương trình giảm nghèo nhanh và bền vững giai đoạn 2016 - 2020; Kết luận số 56-KL/TU về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 09-NQ/TU của Tỉnh ủy (khóa XVII). Lãnh đạo, chỉ đạo các cấp, các ngành đẩy mạnh đào tạo nghề, giải quyết việc làm cho lao động, nhất là lao động ở khu vực nông thôn, khu vực miền núi; thực hiện đầy đủ, kịp thời các chính sách an sinh xã hội.

3. Lãnh đạo, chỉ đạo bảo đảm vững chắc quốc phòng - an ninh, tạo môi trường thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội

Trước tình hình thế giới, trong nước có nhiều diễn biến phức tạp, Tỉnh ủy đã lãnh đạo, chỉ đạo các lực lượng chức năng thường xuyên theo dõi, nắm chắc tình hình trên tuyến biên giới, tuyến biển và các địa bàn trọng yếu, chủ động xử lý và tham mưu xử lý kịp thời các vấn đề phát sinh. Đối với các vụ việc có tính phức tạp xảy ra trên địa bàn tỉnh, Tỉnh ủy đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo giải quyết kịp thời, hiệu quả, dứt điểm vụ việc, không để hình thành điểm nóng. Luôn quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo giải quyết tốt các vấn đề tôn giáo, dân tộc, nên không xảy ra vụ việc phức tạp liên quan đến tôn giáo, dân tộc.

Trước những vấn đề cấp bách như: thiên tai, dịch bệnh; Tỉnh ủy đã chủ động, sáng tạo lãnh đạo, chỉ đạo giải quyết kịp thời, hiệu quả, đặc biệt là dịch Covid-19, dịch tả lợn châu Phi, nên đã sớm kiểm soát tốt tình hình; kịp thời khắc phục hậu quả do các đợt lũ lụt gây ra, sớm ổn định đời sống và sản xuất của Nhân dân.

Tỉnh ủy đã ban hành và lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện Kết luận số 891- KL/TU về bố trí Công an chính quy đảm nhiệm các chức danh Công an xã, thị trấn. Chỉ đạo các lực lượng Công an thực hiện thành công nhiều chuyên án lớn, triệt phá nhiều băng nhóm tội phạm nguy hiểm, phá nhiều vụ án kinh tế, ma túy, tội phạm công nghệ cao, góp phần giữ vững an ninh trật tự trên địa bàn tỉnh.

4. Lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện có hiệu quả công tác đối ngoại, tạo điều kiện để đẩy mạnh thu hút đầu tư

Xác định công tác đối ngoại là nhiệm vụ quan trọng nhằm mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, quảng bá tiềm năng, lợi thế, thu hút đầu tư vào tỉnh; vì vậy, Tỉnh ủy luôn quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện đồng bộ, hiệu quả công tác đối ngoại, nhất là kinh tế đối ngoại. Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã sửa đổi, bổ sung, ban hành mới Quy chế quản lý các hoạt động đối ngoại của tỉnh cho phù hợp với các quy định mới của Trung ương và tình hình thực tế hoạt động đối ngoại; chỉ đạo UBND tỉnh ban hành và triển khai thực hiện Kế hoạch hoạt động đối ngoại của tỉnh hằng năm; ban hành chủ trương để UBND tỉnh tổ chức ký kết và thực hiện Thỏa thuận hợp tác giữa tỉnh Thanh Hóa với các tỉnh, thành phố của các nước. Lãnh đạo, chỉ đạo nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các tổ chức hữu nghị.

III. VỀ XÂY DỰNG ĐẢNG VÀ HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ

Quán triệt sâu sắc quan điểm của Đảng “Xây dựng Đảng là then chốt”, trong nhiệm kỳ 2015 - 2020, Tỉnh ủy tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; nhiều lĩnh vực được triển khai thực hiện sáng tạo, đạt kết quả nổi bật, cụ thể là:

1. Tỉnh ủy đã tập trung triển khai thực hiện nghiêm túc Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI, XII) về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, gắn với thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, Quy định số 08-QĐi/TW ngày 25/10/2018 của Ban Chấp hành Trung ương về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên. Đã ban hành Chương trình hành động số 24-CTr/TU ngày 28/12/2016 thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII), Kế hoạch số 28-KH/TU ngày 12/9/2016 thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị; xây dựng, sửa đổi, bổ sung, ban hành các quy chế, quy định để cụ thể hóa các nghị quyết, chỉ thị, quy định của Trung ương, tạo sự thống nhất thực hiện trong toàn Đảng bộ tỉnh. Chỉ đạo các ban, ủy ban kiểm tra, văn phòng cấp ủy các cấp thường xuyên kiểm tra, giám sát việc tổ chức thực hiện của các cấp ủy, cơ quan, đơn vị. Trong thực hiện kiểm điểm tự phê bình và phê bình hằng năm, yêu cầu các cấp ủy đảng, cán bộ, đảng viên phải nghiêm túc kiểm điểm, đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI, XII), việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và thực hiện quy định nêu gương; sau kiểm điểm, tập trung khắc phục những hạn chế, khuyết điểm đã được chỉ ra, góp phần tạo chuyển biến tích cực trong triển khai thực hiện nhiệm vụ của các cấp, các ngành và của tỉnh.

2. Nhận thức rõ vai trò và tầm quan trọng của công tác tuyên giáo đối với xây dựng Đảng bộ vững mạnh về chính trị, tư tưởng; ngay từ đầu nhiệm kỳ, Tỉnh ủy đã ban hành Quyết định số 485-QĐ/TU phê duyệt Đề án đổi mới, nâng cao chất lượng công tác tuyên giáo của Đảng bộ tỉnh trong tình hình mới; ban hành Chỉ thị số 13-CT/TU “Về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng ngừa, đấu tranh chống âm mưu, hoạt động”diễn biến hòa bình“trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa trong tình hình mới”. Tập trung lãnh đạo đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giáo dục chính trị tư tưởng; đấu tranh, ngăn chặn các biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, thông tin sai trái, bịa đặt.

3. Quán triệt sâu sắc quan điểm “Công tác tổ chức cán bộ là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng", Tỉnh ủy đã chú trọng lãnh đạo, chỉ đạo tạo chuyển biến rõ nét về chất lượng, hiệu quả của công tác này. Trong đó, đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện đồng bộ, quyết liệt, sáng tạo việc sắp xếp tổ chức bộ máy theo Nghị quyết số 18-NQ/TW, Nghị quyết số 19-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII) và Nghị quyết số 37-NQ/TW của Bộ Chính trị, đạt kết quả nổi bật, dẫn đầu cả nước về giảm số lượng đơn vị hành chính cấp xã, thôn, tổ dân phố, góp phần tinh gọn bộ máy, tinh giản biên chế, tiết kiệm chi ngân sách, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị ở cơ sở. Chú trọng đổi mới mạnh mẽ công tác cán bộ; đã ban hành Kết luận số 26-KL/TU về thực hiện một số nội dung về công tác cán bộ trong Khâu đột phá thứ tư của Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVIII; sửa đổi, bổ sung và ban hành nhiều văn bản về công tác cán bộ để xiết chặt quy trình, tiêu chuẩn, điều kiện trong công tác cán bộ. Để khắc phục khâu yếu là đánh giá cán bộ, Tỉnh ủy đã ban hành tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ của tập thể và cá nhân cán bộ lãnh đạo, quản lý, làm cơ sở đánh giá, nhận xét cán bộ hằng năm và cả nhiệm kỳ. Việc bổ nhiệm cán bộ thuộc diện Ban Thường vụ Tỉnh ủy quản lý tiếp tục được mở rộng dân chủ, có cạnh tranh.

4. Để tăng cường kỷ cương, kỷ luật trong Đảng bộ tỉnh, Tỉnh ủy đã chú trọng lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện toàn diện, đồng bộ công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật đảng. Ngay sau Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVIII, Tỉnh ủy đã ban hành Quy chế làm việc của Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy, Chương trình kiểm tra, giám sát của Ban Thường vụ Tỉnh ủy nhiệm kỳ 2015 - 2020. Hằng năm, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đều xây dựng và thực hiện chương trình kiểm tra, giám sát; đồng thời lãnh đạo, chỉ đạo các cấp ủy đảng xây dựng và thực hiện chương trình kiểm tra, giám sát. Triển khai thực hiện đầy đủ, nghiêm túc các nghị quyết, quyết định, quy định, kết luận của Trung ương về công tác kiểm tra, giám sát; đồng thời ban hành các quyết định, quy chế, quy định để tăng cường công tác kiểm tra, giám sát trong Đảng bộ tỉnh. Lãnh đạo Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy và ủy ban kiểm tra các cấp thường xuyên theo dõi, nắm chắc tình hình tổ chức đảng và đảng viên; kịp thời phát hiện, kiểm tra tổ chức đảng, đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm; đã đề nghị cấp có thẩm quyền thi hành kỷ luật 44 tổ chức đảng và 3.463 đảng viên, trong đó có 02 trường hợp là lãnh đạo tỉnh, nhiều trường hợp là người đứng đầu cấp ủy, chính quyền, cấp trưởng, cấp phó sở, ban, ngành đương chức hoặc đã nghỉ hưu.

5. Để nâng cao chất lượng công tác dân vận và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể; Tỉnh ủy đã ban hành Nghị quyết số 02-NQ/TU về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội, Quyết định số 464-QĐ/TU phê duyệt Đề án tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, Kết luận số 267-KL/TU về đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống dân vận các cấp trong tình hình mới, Quy chế đối thoại giữa người đứng đầu cấp ủy, chính quyền các cấp với Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội và Nhân dân. Lãnh đạo, chỉ đạo hệ thống dân vận, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chủ động nắm tình hình Nhân dân, tình hình cơ sở, dân tộc, tôn giáo, tham mưu giải quyết kịp thời các vấn đề phát sinh; khắc phục tính hình thức, hành chính, hướng mạnh các hoạt động về cơ sở, xây dựng, nhân rộng các phong trào từ cơ sở.

6. Lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện nghiêm các chủ trương của Đảng, pháp luật Nhà nước về phòng, chống tham nhũng. Yêu cầu các cấp, các ngành công khai, minh bạch các chính sách, quy trình, thủ tục giải quyết thủ tục hành chính; việc quản lý, sử dụng ngân sách, tài sản công, các chế độ, định mức, tiêu chuẩn; công khai các quy hoạch, đẩy mạnh đấu thầu qua mạng…, nhằm phòng ngừa tham nhũng. Tăng cường thanh tra, điều tra, truy tố, xét xử các vụ án tham nhũng; thường xuyên rà soát, đưa các vụ án tham nhũng phức tạp vào diện Ban Thường vụ, Thường trực Tỉnh ủy theo dõi, chỉ đạo.

7. Lãnh đạo Hội đồng nhân dân tỉnh xây dựng, hoàn thiện hệ thống thể chế tạo môi trường thuận lợi cho kinh tế - xã hội phát triển. Tăng cường giám sát, đôn đốc thực hiện các quyết nghị, cơ chế, chính sách của HĐND tỉnh đã ban hành, giải quyết các kiến nghị của cử tri và Nhân dân; đổi mới, nâng cao chất lượng các kỳ họp Hội đồng nhân dân tỉnh, các kỳ họp Thường trực HĐND tỉnh, nhằm thể hiện rõ vai trò cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương.

8. Lãnh đạo UBND tỉnh quy định về trách nhiệm của người đứng đầu trong giải quyết công việc theo chức năng, nhiệm vụ được giao; đẩy mạnh cải cách hành chính, giảm thời gian giải quyết công việc cho doanh nghiệp và người dân; thành lập và đưa Trung tâm phục vụ hành chính công tỉnh Thanh Hóa vào hoạt động. Rà soát, sắp xếp tổ chức bộ máy khối hành chính và khối sự nghiệp. Tăng cường kỷ luật, kỷ cương hành chính, nâng cao trách nhiệm, chất lượng thực hiện nhiệm vụ của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức.

IV. VỀ THỰC HIỆN QUY CHẾ LÀM VIỆC, NGUYÊN TẮC TẬP TRUNG DÂN CHỦ, ĐỔI MỚI PHƯƠNG THỨC LÃNH ĐẠO CỦA TỈNH ỦY

1. Về xây dựng và ban hành Quy chế làm việc

Ngay sau Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVIII, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã xây dựng Quy chế làm việc của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh. Tại hội nghị lần thứ 2 (họp ngày 03 và 04/12/2015), Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh đã thống nhất ban hành Quy chế làm việc khóa XVIII (Quy chế số 01-QC/TU ngày 12/01/2016). Quy chế làm việc số 01-QC/TU của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XVIII có kế thừa Quy chế làm việc của khóa XVII, bám sát Quy định số 51-QĐ/TW ngày 19/4/2007 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về “nhiệm vụ và quan hệ công tác của thường trực tỉnh ủy, thành ủy”; có bổ sung, sửa đổi những vấn đề còn bất cập.

Sau khi Ban Bí thư ban hành Quy định số 42-QĐ/TW ngày 03/10/2016 (thay thế Quy định số 51-QĐ/TW ngày 19/4/2007), Tỉnh ủy đã bổ sung, sửa đổi và ban hành mới Quy chế làm việc (Quy chế số 03-QC/TU ngày 24/4/2017) theo đúng tinh thần Quy định số 42-QĐ/TW của Ban Bí thư. Năm 2018, Tỉnh ủy đã sửa đổi, bổ sung nội dung phân cấp quản lý cán bộ, bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử theo Quyết định số 105-QĐ/TW ngày 19/12/2017 của Bộ Chính trị và ban hành mới Quy chế làm việc (Quy chế số 05-QC/TU ngày 30/3/2018).

2. Về thực hiện Quy chế làm việc, nguyên tắc tập trung dân chủ và đổi mới phương thức lãnh đạo

Trong nhiệm kỳ 2015 - 2020, công tác lãnh đạo, chỉ đạo và hoạt động của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh, Ban Thường vụ và Thường trực Tỉnh ủy luôn bám sát các quy định của Đảng, tuân thủ nguyên tắc tập trung dân chủ, nêu cao tinh thần trách nhiệm, thực hiện nghiêm túc, đúng nhiệm vụ, quyền hạn được quy định trong Quy chế làm việc; thể hiện rõ vai trò lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát, kiên quyết, kịp thời, toàn diện trên các lĩnh vực, nhưng có trọng tâm, trọng điểm, tập trung giải quyết những vấn đề quan trọng, chiến lược để tạo đột phá, động lực mới cho tỉnh phát triển trước mắt và lâu dài.

Phương thức lãnh đạo của Tỉnh ủy có sự đổi mới, vừa bảo đảm tính toàn diện, vừa có trọng tâm, trọng điểm; quyết liệt, sáng tạo, bám sát tình hình thực tiễn; đánh giá đúng bản chất, thẳng thắn nhìn nhận những hạn chế, yếu kém, trên cơ sở đó đề ra các giải pháp khả thi để khắc phục; chú trọng kiểm tra, giám sát, đề cao trách nhiệm của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu cơ quan, đơn vị.

Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh làm việc theo Chương trình toàn khóa và hằng năm, họp thường kỳ 3 tháng 1 lần và họp bất thường khi cần thiết; nội dung, chương trình hội nghị Ban Chấp hành đều được Ban Thường vụ Tỉnh ủy chuẩn bị, thảo luận kỹ lưỡng, thống nhất cao. Ban Thường vụ Tỉnh ủy thực hiện chế độ mỗi tháng họp 1 kỳ và họp đột xuất khi cần thiết; các quyết định của Ban Thường vụ Tỉnh ủy đều được văn bản hóa theo đúng quy định và gửi đến các tổ chức, cá nhân có trách nhiệm thực hiện. Thường trực Tỉnh ủy họp định kỳ mỗi tuần một lần và họp đột xuất khi cần thiết. Tất cả các nội dung, công việc của Ban Chấp hành, Ban Thường vụ, Thường trực Tỉnh ủy đều được bàn bạc tập thể, thảo luận dân chủ và quyết định theo đúng Quy chế làm việc và các quy định của Đảng. Việc tổ chức các hội nghị được đổi mới, nâng cao chất lượng.

Hằng năm, Ban Thường vụ Tỉnh ủy nghiêm túc thực hiện kiểm điểm tự phê bình và phê bình đối với tập thể và cá nhân theo đúng quy định của Trung ương. Qua kiểm điểm đã làm rõ hơn, sâu sắc hơn những ưu điểm, những hạn chế, khuyết điểm và trách nhiệm của Ban Thường vụ, Thường trực Tỉnh ủy, của các đồng chí Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy; trên cơ sở đó đề ra các giải pháp, kế hoạch, thời gian cụ thể để khắc phục. Kết quả kiểm điểm của tập thể và cá nhân Ban Thường vụ Tỉnh ủy hằng năm đều được báo cáo Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh tại hội nghị được tổ chức gần nhất.

Mối quan hệ công tác giữa Tỉnh ủy, trực tiếp, thường xuyên là Thường trực Tỉnh ủy với các cơ quan Trung ương được thực hiện theo đúng quy định của Đảng; đã kịp thời báo cáo, xin ý kiến chỉ đạo của Ban Bí thư đối với những vấn đề vượt thẩm quyền của tỉnh, những vấn đề quan trọng, cấp bách nảy sinh ở địa phương; chủ động phối hợp chặt chẽ với các cơ quan Trung ương trong thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng - an ninh, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trên địa bàn. Mối quan hệ công tác của Tỉnh ủy với các tổ chức đảng trực thuộc và các cơ quan giúp việc cấp ủy được thực hiện theo đúng Quy chế làm việc; vừa bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo toàn diện, trực tiếp, thường xuyên, vừa phát huy vai trò, trách nhiệm, sự chủ động, sáng tạo của các tổ chức đảng và các cơ quan giúp việc cấp ủy trong tham mưu, triển khai thực hiện nhiệm vụ.

Các đồng chí Thường trực Tỉnh ủy, Thường vụ Tỉnh ủy và đa số các đồng chí Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh luôn thể hiện bản lĩnh chính trị vững vàng, gương mẫu giữ gìn đạo đức, lối sống, chấp hành nghiêm những điều đảng viên không được làm; thực hiện nghiêm túc chế độ sinh hoạt đảng, sinh hoạt cấp ủy; nêu cao tinh thần trách nhiệm trong thảo luận, quyết định những vấn đề quan trọng của tỉnh, trong thực hiện nhiệm vụ được phân công.

B. HẠN CHẾ, KHUYẾT ĐIỂM, NGUYÊN NHÂN VÀ TRÁCH NHIỆM CỦA BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ TỈNH, BAN THƯỜNG VỤ TỈNH ỦY, THƯỜNG TRỰC TỈNH ỦY

I. HẠN CHẾ, KHUYẾT ĐIỂM

1. Trong lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng - an ninh

- Vẫn còn 01 chỉ tiêu chưa đạt mục tiêu Đại hội XVIII đề ra (GRDP bình quân đầu người). Chất lượng tăng trưởng kinh tế còn thấp. Tái cơ cấu ngành nông nghiệp còn chậm; việc gắn kết giữa sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm còn hạn chế. Tỷ lệ lấp đầy một số khu công nghiệp còn thấp. Dịch vụ có giá trị gia tăng cao phát triển chưa mạnh; xuất khẩu chủ yếu vẫn là sản phẩm thô. Nhiều dự án triển khai chậm do vướng mắc về giải phóng mặt bằng. Chỉ số cải cách hành chính xếp thứ hạng thấp so với cả nước. Hiệu quả hoạt động và năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp chưa cao. Kết cấu hạ tầng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội.

- Lĩnh vực văn hóa - xã hội vẫn còn một số hạn chế, yếu kém, đó là: Chất lượng giáo dục đại trà chưa cao; tình trạng thừa, thiếu giáo viên, không đồng bộ về cơ cấu chưa được giải quyết triệt để. Tình trạng không bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm, ô nhiễm môi trường còn xảy ra một số nơi. Nợ đóng bảo hiểm xã hội trong doanh nghiệp còn cao. Sai phạm trong quản lý đất đai còn xảy ra ở một số địa phương.

- Trong lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ quốc phòng - an ninh: Tội phạm hoạt động có tổ chức, tội phạm ma túy, tội phạm sử dụng công nghệ cao còn diễn biến phức tạp.

2. Trong lãnh đạo, chỉ đạo công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị, còn một số hạn chế, khuyết điểm, đó là: Vẫn còn 01 chỉ tiêu chưa đạt mục tiêu Đại hội XVIII đề ra (số lượng đảng viên kết nạp mới bình quân hằng năm). Một số cán bộ, công chức, đảng viên sa sút về tư tưởng chính trị, nhũng nhiễu trong thực thi công vụ, vi phạm quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước đến mức phải xử lý kỷ luật, gây bức xúc trong xã hội. Việc tiếp nhận, bố trí, sử dụng, bổ nhiệm, điều động cán bộ ở một số nơi còn để xảy ra sai sót. Còn xảy ra tham nhũng trong hoạt động công vụ, trong thực hiện quản lý và sử dụng đất đai ở một số địa phương, đơn vị. Chất lượng đại biểu Hội đồng nhân dân một số nơi còn thấp. Quản lý nhà nước trên một số lĩnh vực còn hạn chế. Hiệu quả hoạt động của một số đoàn thể ở cơ sở hiệu quả chưa cao.

3. Trong thực hiện quy chế làm việc, còn một số hạn chế, khuyết điểm, đó là:

- Một số quy định về nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm, mối quan hệ công tác của Ban Chấp hành, Ban Thường vụ Tỉnh ủy trong Quy chế làm việc chưa được cụ thể hóa đầy đủ, kịp thời, nên trong thực hiện có lúc, có việc còn bất cập.

- Trong thực hiện công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật đảng theo Quy chế làm việc có việc còn nể nang.

II. NGUYÊN NHÂN CỦA CÁC HẠN CHẾ, KHUYẾT ĐIỂM

1. Nguyên nhân khách quan: Thiên tai, dịch bệnh thường xuyên xảy ra, đặc biệt là các đợt lũ lụt năm 2017, năm 2018, năm 2019 và đại dịch Covid-19 đã gây ra thiệt hại lớn, làm ảnh hưởng đến thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội của tỉnh. Một số hạn chế, yếu kém kéo dài nhiều nhiệm kỳ thuộc về nội tại kinh tế, xã hội của tỉnh, chưa thể khắc phục ngay được, cần có thời gian và lộ trình khắc phục từng bước.

2. Nguyên nhân chủ quan: Một số cấp ủy đảng, chính quyền, sở, ngành và người đứng đầu chưa tập trung triển khai thực hiện các nhiệm vụ được giao, nhưng Tỉnh ủy chưa chỉ đạo kiểm tra, giám sát kịp thời, chưa cương quyết làm rõ trách nhiệm để xử lý tập thể lãnh đạo và người đứng đầu địa phương, cơ quan, đơn vị. Một số khó khăn, vướng mắc đã được phát hiện, chỉ ra và lãnh đạo, chỉ đạo khắc phục, song chuyển biến còn chậm. Một bộ phận cán bộ, công chức thiếu tinh thần trách nhiệm, thậm chí có trường hợp giảm sút ý chí, sách nhiễu, tham nhũng trong thực thi công vụ, nhưng chưa được phát hiện, chấn chỉnh, uốn nắn, xử lý kịp thời.

III. TRÁCH NHIỆM CỦA BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ TỈNH, BAN THƯỜNG VỤ TỈNH ỦY, THƯỜNG TRỰC TỈNH ỦY VỀ CÁC HẠN CHẾ, KHUYẾT ĐIỂM

Để xảy ra các hạn chế, khuyết điểm là trách nhiệm của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh, Ban Thường vụ Tỉnh ủy và Thường trực Tỉnh ủy, chủ yếu là về lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng, ban hành, triển khai thực hiện các chủ trương, cơ chế, chính sách; trách nhiệm trong lãnh đạo, chỉ đạo giải quyết những khó khăn, vướng mắc trong nội tại kinh tế, xã hội của tỉnh và khó khăn, vướng mắc phát sinh trong thực tiễn; chưa có nhiều chủ trương, giải pháp khả thi và chưa quyết liệt trong lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra, giám sát việc thực hiện khắc phục hạn chế, khuyết điểm; trách nhiệm trong bố trí, sắp xếp đội ngũ cán bộ thuộc diện quản lý, nhất là người đứng đầu các ban, sở, ngành, các địa phương, đơn vị. Cụ thể như sau:

1. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh có trách nhiệm về các hạn chế, khuyết điểm, trong đó có trách nhiệm chính về những hạn chế, khuyết điểm chung trên địa bàn; có việc kéo dài nhiều năm như chất lượng tăng trưởng kinh tế,...

2. Ban Thường vụ Tỉnh ủy có trách nhiệm về các hạn chế, khuyết điểm, chủ yếu là: Trong lãnh đạo, chỉ đạo giải quyết một số khó khăn, vướng mắc phát sinh trong thực tiễn hiệu quả chưa cao. Mặc dù Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã lãnh đạo, chỉ đạo HĐND tỉnh, UBND tỉnh xây dựng và ban hành khá đồng bộ hệ thống thể chế, cơ chế, chính sách phát triển kinh tế - xã hội, tuy nhiên có một số thể chế, cơ chế, chính sách trong quá trình thực hiện còn chậm, chưa hiệu quả, còn bất cập, nhưng chưa lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt để sớm khắc phục. Hằng năm, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đều xây dựng Kế hoạch khắc phục những hạn chế, khuyết điểm đã chỉ ra trong đánh giá tình hình thực hiện nhiệm vụ trên các lĩnh vực, nhưng chưa quy định rõ trách nhiệm của tập thể, cá nhân và chưa quyết liệt trong lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện, nên kết quả đạt được chưa cao. Kỷ luật, kỷ cương hành chính có lúc, có nơi chưa nghiêm; người đứng đầu một số cấp ủy, chính quyền, sở, ngành, đoàn thể trì trệ, thiếu trách nhiệm trong thực hiện nhiệm vụ được giao, trực tiếp để xảy ra các hạn chế, khuyết điểm, nhưng chưa yêu cầu kiểm điểm làm rõ trách nhiệm để có biện pháp xử lý phù hợp.

3. Trách nhiệm của tập thể và cá nhân các đồng chí Thường trực Tỉnh ủy để xảy ra các hạn chế, khuyết điểm chủ yếu là trong chỉ đạo triển khai thực hiện một số nghị quyết, kết luận của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh, của Ban Thường vụ Tỉnh ủy chưa hiệu quả; chưa quyết liệt trong chỉ đạo các tổ chức đảng, các ban, sở, ngành, đoàn thể giải quyết khó khăn, vướng mắc, khắc phục các hạn chế, yếu kém của ngành, địa phương, đơn vị.

4. Một số đồng chí Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh chưa thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ, vai trò lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành ở ngành, địa phương, lĩnh vực phụ trách, còn để công việc ở ngành, địa phương, lĩnh vực phụ trách trì trệ, không hoàn thành đúng kế hoạch, chất lượng đạt thấp, xảy ra sai phạm, làm xuất hiện các hạn chế, yếu kém mới, ảnh hưởng đến thực hiện nhiệm vụ chung của tỉnh.

ĐÁNH GIÁ CHUNG

Nhiệm kỳ 2015 - 2020, trong bối cảnh có nhiều thuận lợi, nhưng cũng gặp không ít khó khăn, thách thức; với quyết tâm lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVIII, đưa Thanh Hóa phát triển mạnh mẽ; Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh, Ban Thường vụ và Thường trực Tỉnh ủy đã thống nhất cao về nhận thức, quyết tâm trong ý chí, quyết liệt trong hành động; chủ động, linh hoạt, sáng tạo lãnh đạo, chỉ đạo toàn diện các lĩnh vực, tập trung vào những vấn đề lớn, trọng tâm, trọng điểm, đột phá, nên đã tạo ra động lực lớn cho tỉnh phát triển nhanh trong giai đoạn 2015 - 2020; đồng thời xây dựng các định hướng chiến lược, chuẩn bị các dự án lớn, tạo cơ sở, điều kiện cho tỉnh tiếp tục phát triển mạnh mẽ trong giai đoạn 2020 - 2025. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh, Ban Thường vụ Tỉnh ủy và Thường trực Tỉnh ủy là một tập thể đoàn kết, bản lĩnh, vững vàng vượt qua khó khăn, thách thức; luôn thực hiện nghiêm quy chế làm việc, nguyên tắc tập trung dân chủ và các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước; nêu cao tinh thần tự phê bình và phê bình; phát huy dân chủ, trách nhiệm, sức mạnh của cả hệ thống chính trị và các tầng lớp Nhân dân trong thực hiện nhiệm vụ chính trị của tỉnh. Vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của Tỉnh ủy là nhân tố quyết định việc thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVIII.

C. BIỆN PHÁP LÃNH ĐẠO, CHỈ ĐẠO KHẮC PHỤC NHỮNG HẠN CHẾ, KHUYẾT ĐIỂM

Để khắc phục những hạn chế, khuyết điểm nêu trong Báo cáo này, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XVIII đề nghị Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIX giao Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XIX xây dựng Kế hoạch khắc phục những hạn chế, khuyết điểm, trong đó đề ra các giải pháp khắc phục hiệu quả, khả thi; phân công trách nhiệm cụ thể cho từng ngành, từng cấp; quy định rõ trách nhiệm của cấp ủy, tập thể lãnh đạo và người đứng đầu các cơ quan, địa phương, đơn vị trong việc khắc phục những hạn chế, khuyết điểm; đề ra mốc thời gian hoàn thành để tập trung lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện quyết liệt. Hằng năm, tiến hành rà soát, đánh giá kết quả thực hiện để bổ sung nhiệm vụ, giải pháp phù hợp với thực tiễn, sớm hoàn thành việc khắc phục những hạn chế, khuyết điểm.

Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Thường trực Tỉnh ủy (khóa XIX) tăng cường kiểm tra, giám sát, làm việc với các ban, ngành, địa phương, đơn vị để trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo khắc phục các hạn chế, khuyết điểm; kiên quyết bố trí lại người đứng đầu cấp ủy, chính quyền, cơ quan, đơn vị nếu để hạn chế, khuyết điểm của ngành, địa phương, đơn vị kéo dài do nguyên nhân chủ quan, ảnh hưởng đến thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ của tỉnh.

D. MỘT SỐ KINH NGHIỆM TRONG LÃNH ĐẠO, CHỈ ĐẠO

Từ thực tiễn lãnh đạo, chỉ đạo trong nhiệm kỳ 2015 - 2020, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XVIII rút ra một số kinh nghiệm sau:

Một là, phải thực hiện nghiêm Quy chế làm việc, nguyên tắc tập trung dân chủ và các quy định của Đảng; giữ vững và tăng cường sự đoàn kết, thống nhất trong Thường trực Tỉnh ủy, Ban Thường vụ Tỉnh ủy và Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh trên cơ sở các quy định của Đảng, pháp luật Nhà nước, vì lợi ích chung và sự phát triển đi lên của tỉnh. Thường xuyên chăm lo xây dựng Đảng và hệ thống chính trị từ tỉnh đến cơ sở trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.

Hai là, trong lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ chính trị của tỉnh phải chủ động, sáng tạo, quyết tâm trong ý chí, quyết liệt trong hành động; phân công trách nhiệm cụ thể, tăng cường kỷ luật, kỷ cương, nâng cao trách nhiệm của các cấp, các ngành, nhất là người đứng đầu các cơ quan, địa phương, đơn vị; đồng thời phát huy dân chủ, huy động sức mạnh của toàn dân, để thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ.

Ba là, lãnh đạo, chỉ đạo toàn diện trên các lĩnh vực, nhưng có trọng tâm, trọng điểm; tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thu hút đầu tư, huy động tối đa các nguồn lực cho phát triển kinh tế - xã hội; xây dựng và triển khai thực hiện các chủ trương, chính sách nhằm khai thác và phát huy hiệu quả tiềm năng, lợi thế của tỉnh, tranh thủ tối đa thời cơ, vận hội mới, kịp thời khắc phục khó khăn, thách thức, bảo đảm cho tỉnh phát triển nhanh và bền vững.

Bốn là, chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, đặc biệt là đội ngũ cán bộ chủ chốt các cấp có đủ phẩm chất, năng lực, dám nghĩ, dám làm, có ý chí, khát vọng vươn lên vì sự phát triển của tỉnh và của từng địa phương, đơn vị.

Phát huy những ưu điểm, kinh nghiệm trong lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ của tỉnh được đúc kết qua các kỳ Đại hội Đảng bộ tỉnh, nhất là trong nhiệm kỳ 2015 - 2020; đồng thời quyết tâm khắc phục những hạn chế, khuyết điểm đã chỉ ra; tin tưởng rằng, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh và các đồng chí Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XIX sẽ lãnh đạo, chỉ đạo Đảng bộ, Chính quyền, Nhân dân các dân tộc trong tỉnh triển khai thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIX./.



 {name} - {time}

 Trả lời

{body}
 {name}- {time}
{body}

0 bình luận

Ý kiến của bạn sẽ được biên tập trước khi đăng. Vui lòng gõ tiếng Việt có dấu

Địa phương

Xem thêm TP.Thanh Hóa

Thời tiết

Chia sẻ thông tin với bạn bè!
Tắt [X]