Bên dòng sông Mã
Sông Mã có tên chữ là Lỗi giang. Người Thái, người Lào gọi sông Mã là Nặm Mạ, dịch ra tiếng phổ thông là sông Ngựa. Tuy nhiên, về từ nguyên học thì Mã là âm chữ Hán để ghi tên thật của dòng sông là “Mạ” với nghĩa là sông mẹ, sông cái để chỉ về một dòng sông lớn. Trên dòng sông có chiều dài 512km ấy, không chỉ vang lên khúc độc hành, mà theo dòng chảy đã hòa nhịp vào đời sống cộng đồng dân cư hai bên bờ.
Tháp Mường Luân bên bờ sông Mã chảy qua xã Mường Luân, huyện Điện Biên Đông (Điện Biên).
Từ nơi đầu nguồn
Sông Mã bắt đầu bằng hợp lưu các suối ở vùng biên giới Việt - Lào tại xã Mường Lói (huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên). Tuy nhiên, dọc đường đi, sông tiếp nhận thêm nước từ nhiều dòng suối khác để, đến khu vực xã Mường Luân (huyện Điện Biên Đông) bề mặt rộng hơn, ào ạt chảy và chính thức có tên sông Mã trên bản đồ.
Cung đường chúng tôi đi từ TP Điện Biên đến huyện Điện Biên Đông chừng 70km, hầu hết là qua những đồi núi quanh co, không khác gì miền biên viễn xứ Thanh mà tôi gắn bó. Điện Biên Đông vốn được tách từ huyện Điện Biên, một huyện phần đông là người đồng bào dân tộc, sống nhờ núi, nhờ rừng. Về cơ bản rừng ở đây đã trơ trọc, chỉ nhìn thấy đá lởm chởm. Vài năm gần đây chính quyền nỗ lực vận động, khuyến khích người dân trồng rừng, tỉ lệ bao phủ đã đạt khoảng 26%.
Điện Biên Đông thuộc lưu vực sông Mã, là địa bàn có hệ thống sông suối tương đối dày, nguồn nước dồi dào. Trên dòng sông Mã đến nay có 14 nhà máy thủy điện. Trong đó, không nơi nào có nhiều thủy điện như xã Mường Luân. Trên 15km sông Mã có 2 thủy điện nằm trọn trong xã là Thủy điện Mường Luân 1, Thủy điện Mường Luân 2, ngoài ra 2 thủy điện có thân đập chảy qua đó là Thủy điện Sông Mã 3 và Thủy điện Chiềng Sơ 2. Và 2 nhà máy thủy điện có liên quan đến diện tích tích nước của xã đó là Thủy điện Sông Mã 2 và Thủy điện Chiềng Sơ 1.
"Đi đến đất Mường Luân là cô đã nghe thấy rõ tiếng chảy của dòng nước. Lát nữa tôi sẽ mời cô ăn món mực sông Mã, Thanh Hóa không có đâu”, nghe lời giới thiệu của Phó Chủ tịch UBND xã Mường Luân Lò Văn Khánh, tôi thực sự tò mò.
Tại sao nói, đến Mường Luân sông Mã mới có tên chính thức trên bản đồ?. Bởi phía trên khu vực này, ở xã Mường Lói, sông Mã không khác gì những con suối nhỏ, róc rách chảy, thường xuyên khô hạn. Khi có thêm nhiều con suối góp nước vào, sông Mã cuồn cuộn và mạnh mẽ hơn. Điểm sơ qua có: suối Lư, Háng Lìa, Tìa Dình, Na Nghịu, Phì Nhừ, Huẩy Men, Nặm Giói, Huẩy Púng, Co Loóng, Tạng Áng và rất nhiều những con suối nhỏ khác.
Sông Mã chảy qua, các bãi bồi ven sông đất đai màu mỡ, thuận lợi cho trồng trọt và nuôi thủy sản. “Đất lành chim đậu. Không biết từ khi nào, người Lào chúng tôi đã quyết định chuyển đến định cư cùng chung sống đoàn kết, hòa thuận với các dân tộc Thái, Mông, Khơ Mú... ở Mường Luân”, ông Lò Văn Sơn, Bí thư Đảng ủy xã, nói. Người Lào trên đất Mường Luân chiếm khoảng gần 30% dân số, họ cấy lúa, trồng bông, quay sợi để dệt nên những chiếc khăn, chiếc váy sặc sỡ sắc màu mà bền đẹp để diện trong những ngày lễ: mừng cơm mới, tết té nước và lễ cúng tháp. Người Lào ở đây tự hào vì họ có tháp Mường Luân, di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia, có nghệ thuật trình diễn múa lăm vông của người Lào, nghệ thuật thêu dệt thổ cẩm... Điều kiện thuận lợi, lại thêm đồng bào dân tộc Lào, Thái, Khơ Mú... ở đây chăm chỉ lao động, vì thế mà Mường Luân là xã đầu tiên của huyện Điện Biên Đông được công nhận đạt chuẩn NTM.
Nói lại về món mực sông Mã, trong bữa cơm trưa, chúng tôi được ông Lò Thanh Quyết, Phó Chủ tịch phụ trách UBND xã Mường Luân, giới thiệu: Khúc sông Mã chảy qua xã Mường Luân có nhiều vũng nước sâu và lắm ghềnh đá, nhiều vụng xoáy, hang động lớn dưới đáy sông nên trở thành nơi lý tưởng cho nhiều loài cá sinh sống như: chiên, nheo, chép, lăng... Nhưng đến đây là phải ăn món mực sông Mã, khác hoàn toàn món mực biển Sầm Sơn quê của hiệu trưởng Hồ Công Nam nhé.
Nghe giới thiệu thế, anh Hồ Công Nam, Hiệu trưởng Trường Phổ thông Dân tộc bán trú tiểu học và THCS Mường Luân, tủm tỉm cười: Tôi quê ở thôn Bái Môn, xã Quảng Văn, huyện Quảng Xương mình đấy. Mực quê mình có màu trắng, còn mực ở đây thì màu xanh... Lát ăn với cơm nếp và vài chén rượu là nhớ mãi không quên.
Hóa ra, đó là món rêu mà người dân thu hái từ trên những tảng đá dưới sông Mã. Đoạn sông Mã đầu nguồn nước sạch và ngọt, nên rêu đá là sản vật do thiên nhiên ban tặng. Anh Hồ Công Nam lên Điện Biên từ khi anh đang học lớp 11. Sau khi tốt nghiệp đại học, anh về xã Mường Luân công tác từ năm 2002 đến nay. “Đã 22 năm sinh sống ở đây, tôi trực tiếp thấy những sự đổi thay. Trước đây từ Mường Luân ra trung tâm huyện ít nhất phải mất 1 ngày, phương tiện chủ yếu là hai chân. Gặp hôm trời mưa thì có khi 3 ngày chưa tới nơi. Giờ nghĩ lại còn ớn lạnh”.
Thế mà nay, bắt đầu từ cầu Pá Vạt nối giữa bản Na Nghịu xã Phì Nhừ với Pá Vạt 2 đi vào Mường Luân là thấy từ đường sá, đến nhà cửa đều to đẹp. Đặc biệt từ năm 2022, khi Thủy điện Sông Mã 3 đi vào hoạt động, hòa vào điện lưới quốc gia người dân có cơ hội đi nương bằng thuyền, thay vì đi bộ cả ngày, cả tuần mới lên đến nương. Nay, vận chuyển nông sản cũng bằng thuyền; thương lái đi thuyền đến tận nơi thu mua. Một cuộc sống mới đang hình thành trên lòng hồ thủy điện.
Và khi con sông Mã chảy vào xứ Thanh
Sau khi qua đất Điện Biên, sông Mã chảy uốn lượn, với hướng chính Tây Bắc - Đông Nam qua huyện Sông Mã của tỉnh Sơn La rồi qua lãnh thổ Lào ở Cửa khẩu Chiềng Khương. Ở Sơn La, sông Mã tiếp tục nhận nước từ một số suối từ địa bàn Thuận Châu, Mai Sơn, Sông Mã, Sốp Cộp. Ở Lào, sông Mã có chiều dài 102km, chảy qua hai huyện Xiềng Khọ và Sốp Bâu của tỉnh Hủa Phăn và nhận thêm nước từ dòng Nậm Ét ở Xiềng Khọ.
Xanh trong dòng sông Mã trên đất Mường Lát.
Trên hành trình 410km đổ vào đất Việt, bắt đầu từ Tén Tằn, sông Mã chảy ầm ào, dữ tợn vào mùa lũ tạo nên trăm thác ngàn ghềnh trên chặng đường dài 270km, qua Mường Lát, Quan Hóa, Bá Thước, Cẩm Thủy, Vĩnh Lộc, Yên Định, Thiệu Hóa, TP Thanh Hóa, Hoằng Hóa, TP Sầm Sơn rồi đổ ra Vịnh Bắc Bộ ở dòng chính là sông Mã (cửa Hới - Lạch Trào) cùng hai phân lưu là sông Tào (cửa Lạch Trường) và sông Lèn (cửa Lèn - Lạch Sung). Trên hành trình sông Mã cậy thế mạnh oai hùng còn rủ rê để sông Nặm Niêm, sông Luồng, sông Bưởi, sông Chu cùng nhập vào với mình tạo nên bao huyền thoại.
Sông Mã không lớn như sông Hồng, sông Mê Kông, sông Đồng Nai, nhưng lại có vị trí cực kỳ quan trọng về mặt địa chính trị, địa văn hóa của dân tộc Việt Nam nói chung và xứ Thanh nói riêng. Bởi lẽ, “dòng sông này góp phần nuôi dưỡng những chủ nhân của lịch sử và hun đúc nên những nền văn hóa cổ trong đó có văn hóa Mường, góp phần quan trọng cho việc hình thành nhà nước Văn Lang - Âu Lạc và nền văn minh Đông Sơn rực rỡ” (theo PGS.TS Mai Văn Tùng).
Mỗi lần đến khu vực cửa khẩu Tén Tằn (Mường Lát), tiếng vọng của sông Mã như một lời chào khi chảy vào mạch nguồn xứ Thanh. Ở đây, từ năm 1947, Trung đoàn 52, hoạt động trên địa bàn Tây Bắc, phía Tây tỉnh Thanh Hóa và Thượng Lào, có nhiệm vụ bảo vệ biên giới Việt - Lào, đánh tiêu hao lực lượng quân đội Pháp ở Tây Bắc và Thượng Lào là nguồn cảm hứng để nhà thơ Quang Dũng viết “Tây Tiến”. Địa danh Sài Khao chỉ có rừng và núi, khiến “đoàn quân mỏi” nay đang thay da đổi thịt từng ngày. Nghị quyết số 11 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về xây dựng và phát triển huyện Mường Lát đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 là cơ hội để Mường Lát hôm nay “sáng bừng biên giới”. Con sông Mã trên miền biên viễn xứ Thanh cũng không còn phải gầm lên khúc độc hành. Bởi xuôi dòng sông Mã là 7 dự án thủy điện: Trung Sơn, Thành Sơn, Hồi Xuân, Bá Thước I, Bá Thước II, Cẩm Thủy I, Cẩm Thủy II.
Dọc hai bên sông Mã ở xứ Thanh là hệ thống đền đài, miếu mạo ghi những dấu ấn lịch sử về tinh thần đấu tranh dựng nước của cha ông, nơi thuyền bè mang lâm sản thượng du, hải sản hạ du ngàn năm xuôi ngược, nơi dung chứa bao mồ hôi, nước mắt những người chở đò, chèo bè, chèo thuyền kết tinh thành điệu dô huầy, mang đầy khí phách sông thiêng hồn núi xứ Thanh. Chỉ có duy nhất trên mảnh đất này, có hẳn một điệu hò mang tên một dòng sông, điệu hò Sông Mã có một không hai trên đất Việt.
Con sông Mã tồn tại bao đời, chảy mạnh mẽ và rong ruổi mấy trăm cây số nhưng đến ngày máy bay Mỹ đánh phá miền Bắc, sông Mã cũng mới có một cây cầu duy nhất là Hàm Rồng. Cấu tạo lòng sông Mã ở khu vực này rất phức tạp, độ chênh dòng nước cao ở đoạn núi Đầu Rồng, núi Ngọc khiến dòng chảy như thác lũ, mặt đá lòng sông nghiêng, có độ dốc cao lại nhiều hang động nên rất khó thi công ngầm dưới lòng sông Mã. Gần 200 thợ cầu Việt đã phải bỏ mạng và 1 viên kỹ sư thiết kế người Pháp sợ hãi mà phải tự tử. Đến khi kỹ sư người Đức sửa lại thiết kế thì mới cắm được chốt neo. Đến năm 1904 (sau 3 năm thi công), cầu Hàm Rồng được hoàn thành nối liền dòng sông Mã từ núi Ngọc sang núi Đầu Rồng.
Năm 1947, trong kế hoạch tiêu thổ kháng chiến để ngăn chặn đường tiến công chiếm thành Thanh Hóa của giặc Pháp, ta đã phải đánh sập cây cầu. Gần 10 năm sau, ta mới xây dựng lại cây cầu lịch sử trên mảnh đất thiêng Hàm Rồng để suốt cuộc chiến tranh cây cầu này luôn là mục tiêu số một của không quân Mỹ đánh phá, hòng cắt con đường vận tải huyết mạch của ta vào chiến trường miền Nam. Hàng vạn tấn bom đạn của Mỹ ngày đêm đánh phá; không biết bao nhiêu con thuyền chở hàng vào chiến trường đã phải đi qua Hàm Rồng và cũng không biết bao nhiêu người đã bị bom Mỹ vùi dưới dòng sông lịch sử để rồi ngàn đời vang vọng hai chữ Hàm Rồng và nỗi nhớ đồng đội không bao giờ nguôi ngoai.
Mã giang, con sông lớn duy nhất khởi thủy từ đất Việt ngàn đời nay vẫn chảy, có thể không còn cuồn cuộn, gầm gào nữa, mà thanh bình hiền hòa như cuộc sống của chúng ta hôm nay.
Bài và ảnh: KIỀU HUYỀN
{name} - {time}
-
2024-06-28 13:15:00
Bộ đội Biên phòng tỉnh triển khai đồng bộ các mặt công tác biên phòng
-
2024-05-23 05:56:00
Hôm nay, Quốc hội đánh giá kết quả thực hiện ngân sách và phát triển kinh tế
-
2024-04-10 07:38:00
Chiến dịch Điện Biên Phủ: Ngày 10/4/1954, ta tiếp tục củng cố và phát triển trận địa tiến công
Ký ức Điện Biên
Những người con Thanh Hóa ở Điện Biên
Khúc tráng ca hang Co Phương
Tô Vĩnh Diện - Thà hy sinh, quyết bảo vệ pháo
Chiến dịch Điện Biên Phủ: Ngày 9/4/1954, ta bắn rơi chiếc máy bay C119
Lần theo con đường tải lương lên Điện Biên Phủ
Lò cao kháng chiến Hải Vân: Một thời đỏ lửa giữa rừng xanh
Dốc toàn lực cho Điện Biên Phủ toàn thắng
Điện Biên Phủ, ngày 8/4/1954, Đại tướng Võ Nguyên Giáp gửi thư kêu gọi chiến sĩ