(Baothanhhoa.vn) - Thắng lợi của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn là thắng lợi của sức mạnh Nhân dân, của tinh thần “Đem đại nghĩa để thắng hung tàn/ Lấy chí nhân để thay cường bạo”. Thắng lợi ấy không chỉ là dấu son rực rỡ trong lịch sử dựng nước và giữ nước; mà còn đặt nền móng mở ra thời kỳ hưng thịnh “Muôn thuở nền thái bình vững chắc” cho quốc gia - dân tộc.

“Khởi nghĩa Lam Sơn - Dấu son rực rỡ trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc”: Bài 1 - Biểu tượng của sức mạnh Nhân dân và tinh thần nhân nghĩa

Thắng lợi của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn là thắng lợi của sức mạnh Nhân dân, của tinh thần “Đem đại nghĩa để thắng hung tàn/ Lấy chí nhân để thay cường bạo”. Thắng lợi ấy không chỉ là dấu son rực rỡ trong lịch sử dựng nước và giữ nước; mà còn đặt nền móng mở ra thời kỳ hưng thịnh “Muôn thuở nền thái bình vững chắc” cho quốc gia - dân tộc.

“Khởi nghĩa Lam Sơn - Dấu son rực rỡ trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc”: Bài 1 - Biểu tượng của sức mạnh Nhân dân và tinh thần nhân nghĩa

Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn được sân khấu hóa và trình diễn tại lễ hội Lam Kinh (ảnh tư liệu).

Từ “Trời thử lòng trao cho mệnh lớn”...

Sau 5 thế kỷ giành độc lập, đầu thế kỷ XV, nước Đại Việt lại bị phong kiến phương Bắc đô hộ. Sau khi đánh bại cuộc kháng chiến của cha con Hồ Quý Ly (1407), nhà Minh tổ chức bộ máy chính quyền cai trị nhằm biến Đại Việt thành một quận huyện của Trung Quốc. Ách đô hộ của nhà Minh không những đã kìm hãm sự phát triển của xã hội, chà đạp thô bạo cuộc sống của Nhân dân; mà trong 20 năm thống trị, với dã tâm hủy diệt, vĩnh viễn xóa bỏ tên nước Đại Việt, giặc Minh không từ bất cứ thủ đoạn thâm độc nào nhằm đồng hóa, hủy hoại mọi khả năng phục hồi nền độc lập của dân tộc ta. Sự tàn bạo của kẻ thù với mưu đồ thâm độc xóa tên nước Đại Việt đã cuốn đất nước ta vào vòng xoáy khủng khiếp của sự tồn – vong và giá trị con người bị dìm xuống đáy của thân phận nô lệ. Thực trạng ấy đã được Nguyễn Trãi khái quát trong Bình Ngô đại cáo: “Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn/ Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ/ Dối trời lừa dân đủ muôn ngàn kế/ Gây thù kết oán trải mấy mươi năm/ Bại nhân nghĩa nát cả đất trời/ Nặng thuế khóa sạch không đầm núi”.

Sự tàn bạo của bè lũ xâm lược đã thôi thúc các cuộc nổi dậy đấu tranh giành độc lập dân tộc. Ngoài những cuộc khởi nghĩa do quý tộc nhà Trần lãnh đạo, điển hình nhất là Trần Ngỗi và Trần Quý Khoáng; từ cuối năm 1407, nhiều cuộc khởi nghĩa cũng đã nổ ra ở khắp miền, từ đồng bằng đến rừng núi. Dưới sự đàn áp của kẻ thù, các phong trào hầu hết đã thất bại hoặc đi vào ngõ cụt. Song cũng chính thực trạng đen tối của đất nước và sự bế tắc của các phong trào đấu tranh là cơ sở, là nền tảng để Lê Lợi – người mang tư tưởng thương dân, yêu nước và lòng căm thù bè lũ cướp nước “Lẽ nào trời đất dung tha? Ai bảo thần dân chịu được?” – đã bước lên vũ đài lịch sử, để khởi xướng và lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đến ngày toàn thắng.

Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn nổ ra vào mùa xuân năm Mậu Tuất (1418) ở núi rừng Lam Sơn (nay thuộc huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa). Dưới ngọn cờ nghĩa của Bình Định Vương Lê Lợi, nghĩa quân Lam Sơn bước vào cuộc chiến đấu với tinh thần quả cảm, kiên cường, dù tương quan lực lượng với kẻ thù là vô cùng chênh lệch: “Vừa khi cờ nghĩa dấy lên/ Chính lúc quân thù đang mạnh”. Theo sách Lam Sơn thực lục, nghĩa quân buổi đầu khởi sự mới chỉ có 35 quan võ, một số quan văn, 200 quân thiết đột, 200 nghĩa sĩ, 200 dũng sĩ, 14 con voi và một số người tham gia chủ yếu là người Thanh Hóa, tất cả không quá 2.000 người. Lúc ấy, nghĩa quân Lam Sơn “cơm ăn chẳng nề hai bữa, áo mặc chẳng phân đông hè, quân lính chỉ độ vài nghìn, khí giới thì thật tay không”; so với lực lượng quân Minh “có tới hơn 4 vạn rưỡi tên, voi ngựa có hàng trăm con”, thì lực lượng nghĩa quân thật quả là nhỏ bé.

Cuộc khởi nghĩa vừa phát động thì Tổng binh nhà Minh là Lý Bân đã phái Đô chỉ huy Chu Quảng dẫn quân từ thành Tây Đô lên đàn áp. Quân Minh liên tiếp mở các cuộc tiến công, càn quét vùng Lam Sơn, quyết dập tắt cuộc khởi nghĩa. Trước sự truy đuôi ráo riết của quân Minh, nghĩa quân phải rút lên ẩn náu trên núi Chí Linh (tức núi Pù Rinh, thuộc xã Giao An, huyện Lang Chánh). Bị quân Minh vây chặt, nghĩa quân cạn hết lương thực. Trước tình thế hiểm nghèo đó, Lê Lai đã tự nguyện đóng giả Lê Lợi, dẫn 500 quân xông ra phá vòng vây để đánh lừa quân địch và đã anh dũng hy sinh. Nhờ đó, Lê Lợi và nghĩa quân mới thoát khỏi vòng vây dày đặc của quân thù và trở về Lam Sơn khôi phục căn cứ, củng cố lực lượng, chuẩn bị những trận chiến đấu mới.

Trận thắng đầu tiên của nghĩa quân là trên Lạc Thủy (phía Bắc thượng du sông Chu, thuộc địa bàn huyện Cẩm Thủy ngày nay). Do lực lượng còn non yếu, lại bị giặc Minh đàn áp, nghĩa quân đã rút về Lạc Thủy để dựa vào địa hình hiểm yếu và bố trí mai phục. Khi quân Minh truy đuổi lên Lạc Thủy và lọt vào trận địa mai phục, quân khởi nghĩa đã “chém được hơn 3.000 thủ cấp, thu được hàng ngàn quân tư, khí giới” và buộc Mã Kỳ phải rút lui. Thắng lợi của trận Lạc Thủy có ý nghĩa đặc biệt, không chỉ khẳng định nghĩa quân Lam Sơn dưới sự chỉ huy của Bình Định Vương Lê Lợi có thể đánh bại kẻ thù mạnh và đông gấp nhiều lần; mà trận thắng còn tạo dựng niềm tin cho Nhân dân vào phong trào đấu tranh chống kẻ thù xâm lược.

Chịu nhiều tổn thất do liên tục bị kẻ thù đàn áp hòng dập tắt cuộc khởi nghĩa, nghĩa quân Lê Lợi đã mấy lần phải rút lên núi Chí Linh rồi lại quay về Lam Sơn để củng cố lực lượng. Có thời điểm khi trở về căn cứ Lam Sơn, quân số chỉ còn trên dưới 100 người. Trong những thời điểm gian khổ nhất của cuộc khởi nghĩa, nghĩa quân Lam Sơn đã dựa vào sự đùm bọc, giúp đỡ của Nhân dân các địa phương vùng rừng núi phía Tây Thanh Hóa để duy trì hoạt động. Đến tháng 9 năm Giáp Thìn 1424, nghĩa quân Lam Sơn từ Thanh Hóa chuyển vào xây dựng căn cứ tại Nghệ An. Từ đây, cuộc khởi nghĩa Lam Sơn bước sang một giai đoạn phát triển mới. Theo PGS.TS Nguyễn Minh Đức, Viện Lịch sử Quân sự - Bộ Quốc phòng, thì cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo ở thế kỷ XV là một cuộc khởi nghĩa lớn và kéo dài trong suốt 10 năm. So với các cuộc khởi nghĩa trước đó, cuộc khởi nghĩa Lam Sơn diễn ra trên một phạm vi rộng lớn, từ Tân Bình - Thuận Hóa trở ra Bắc; trong đó thời gian hoạt động trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa là giai đoạn hoạt động có ý nghĩa rất quan trọng đối với tiến trình phát triển và thắng lợi của cuộc khởi nghĩa.

Cũng theo các nhà nghiên cứu, thì so với thời gian 10 năm diễn ra cuộc khởi nghĩa, những năm tháng hoạt động trên địa bàn Thanh Hóa (1418 - 1424) là giai đoạn dài nhất và cực kỳ gian khổ của nghĩa quân Lam Sơn. Bởi đây là giai đoạn “nghĩa binh mới dấy”, “thế giặc đương hăng”. Dù chịu nhiều tổn thất nhưng được Nhân dân đùm bọc, giúp đỡ và bằng nghị lực phi thường, nghĩa quân dưới sự lãnh đạo của Chủ tướng Lê Lợi và bộ tham mưu, đã triệt để lợi dụng địa thế hiểm trở của núi rừng Thanh Hóa để đánh nhiều trận phục kích, tập kích, đập tan nhiều cuộc tiến công, càn quét của kẻ thù. Trải qua hơn 6 năm tôi luyện trong gian khổ, cuộc khởi nghĩa Lam Sơn ngày càng phát triển lớn mạnh, trở thành trung tâm quy tụ các lực lượng yêu nước; đồng thời, tạo cơ sở quan trọng để thúc đẩy cuộc khởi nghĩa địa phương phát triển thành một cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc có quy mô cả nước và giành thắng lợi vẻ vang trong lịch sử chống ngoại xâm của Nhân dân ta.

... đến “Giang sơn từ đây đổi mới”

Tiến vào Nghệ An để tạo dựng căn cứ, rồi dựa vào vị thế, nhân lực, tài lực nơi đây làm cơ sở, làm bàn đạp tiến quân ra Đông Đô. Đây là kế sách cũng là phương hướng chiến lược mới của cuộc khởi nghĩa. Với nhiều trận đánh lớn, nhiều thắng lợi quan trọng: “Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật/ Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay”; năm 1425, Bình Định Vương Lê Lợi cho quân siết chặt vòng vây thành Nghệ An, đắp thành Lục Niên ở núi Thiên Nhẫn bên hữu ngạn sông Lam để đóng quân lâu dài. Tháng 8-1426, Lê Lợi cho một số tướng tiến ra Bắc, mở đầu chiến dịch vây thành Đông Quan. Giặc Minh ở thành Đông Quan phải đắp cao thành lũy để phòng ngự và gửi thư cấp bách cho Lý An, Phương Chính từ thành Nghệ An mang quân ra ứng cứu. Tổng binh Vương Thông cố thủ thành Đông Quan 1 năm (từ tháng 10-1426 đến tháng 10-1427). Lê Lợi sai Nguyễn Trãi đưa thư gọi hàng nhiều lần nhưng hắn vẫn ngoan cố và âm mưu đợi quân cứu viện từ triều Minh. Khi quân cứu viện do Liễu Thăng và Mộc Thạnh bị quân ta tiêu diệt, Vương Thông phải chịu giảng hòa. Với dấu mốc là Hội thề Đông Quan, cuộc khởi nghĩa Lam Sơn trải qua 10 năm chiến đấu ngoan cường đã giành toàn thắng vào năm 1428. Thắng lợi ấy đã chấm dứt ách đô hộ của giặc Minh, khôi phục lại nền độc lập cho dân tộc. Lê Lợi lên ngôi Hoàng đế, đặt niên hiệu Thuận Thiên, đặt nền móng vững chắc để đưa quốc gia Đại Việt bước vào giai đoạn phát triển rực rỡ bậc nhất.

Khởi nghĩa Lam Sơn được các nhà nghiên cứu lịch sử đánh giá là cuộc chiến tranh chống ngoại xâm do giai cấp phong kiến lãnh đạo đạt tới tính chất Nhân dân sâu rộng nhất. Đây cũng chính là đặc điểm nồi bật nhất và là cội nguồn sức mạnh vô địch của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, hoàn toàn khác so với cuộc kháng chiến của nhà Hồ cũng như tất cả các cuộc khởi nghĩa chống Minh trước đó. Nhờ bởi “Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới/ Tướng sĩ một lòng phụ tử, hòa nước sông chén rượu ngọt ngào”, nên thắng lợi kỳ diệu của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn là thắng lợi của toàn dân, thắng lợi của toàn dân tộc. Đồng thời, phất ngọn cờ đại nghĩa “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân/ Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”, Bình Định Vương Lê Lợi đã quy tụ các anh hùng hào kiệt khắp nơi và cũng dưới lá cờ mang tinh thần thời đại ấy, các anh hào được thi thố tài năng và có những đóng góp đặc biệt cho đất nước. Và, suy cho cùng thì người duy nhất ở thời điểm lịch sử ấy - có thể hội được đầy đủ uy tín và tài năng, đặc biệt là biết dựa vào sức dân, biết trọng dụng nhân tài để mưu nghiệp lớn cứu nước, cứu dân - chính là Anh hùng dân tộc Lê Lợi. Vì vậy, khẳng định ý nghĩa của cuộc khởi nghĩa cũng chính là khẳng định vai trò lãnh tụ của Bình Định Vương Lê Lợi – linh hồn của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.

Cùng với việc quy tụ sức mạnh Nhân dân, thì đề cao tinh thần nhân nghĩa cũng đã góp phần nâng tầm vóc và ý nghĩa của khởi nghĩa Lam Sơn: “Đem đại nghĩa để thắng hung tàn/ Lấy chí nhân để thay cường bạo”. Sự tàn bạo của kẻ thù trong 20 năm ròng rã đô hộ nước ta đã được Nguyễn Trãi đúc kết trong Bình Ngô đại cáo: “Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội/ Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi!”. Thế nhưng, thay vì lấy oán báo oán ta đã mở đường hiếu sinh: “Thần vũ chẳng giết hại, thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh/ Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến biển mà vẫn hồn bay phách lạc/ Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa, về đến nước mà vẫn tim đập chân run”. Tinh thần nhân nghĩa sẵn sàng buông tha cho kẻ thù là bởi “Ta lấy toàn quân là hơn, để Nhân dân nghỉ sức”; song quan trọng hơn là bởi lòng nhân ái, yêu chuộng hòa hiếu đã trở thành lẽ sống của dân tộc, thành phẩm giá của con người xứ sở này. Để rồi, khi “xã tắc từ đây bền vững”, từ trên tầm cao của chiến công và sự nghiệp, Vua Lê Thái tổ đã khẳng định: “Trẫm gặp buổi lắm hoạn nạn, dựng nghiệp càng khó khăn. May mà trời cho, người theo, nên công nghiệp được thành, thật là do tổ tiên tu nhân tích đức cho nên mới được như thế”!

(Bài viết có sử dụng một số tư liệu của các tác giả trong Kỷ yếu hội thảo khoa học Anh hùng dân tộc Lê Lợi và Nhân dân Thanh Hóa với khởi nghĩa Lam Sơn).

Bài 2: Hội thề Lũng Nhai - hội thề non sông.

Khôi Nguyên


Khôi Nguyên

 {name} - {time}

 Trả lời

{body}
 {name}- {time}
{body}

0 bình luận

Ý kiến của bạn sẽ được biên tập trước khi đăng. Vui lòng gõ tiếng Việt có dấu

Địa phương

Xem thêm TP.Thanh Hóa

Thời tiết

Chia sẻ thông tin với bạn bè!
Tắt [X]