(Baothanhhoa.vn) - Những năm qua, việc chuyển giao các tiến bộ khoa học - kỹ thuật (KHKT) vào sản xuất nông nghiệp đã mang lại những thay đổi tích cực trong nhận thức của người dân ở khu vực miền núi. Tuy còn gặp nhiều khó khăn, nhưng đã đạt được những kết quả khả quan, từ đó, góp phần nâng cao năng suất, chất lượng và giá trị sản phẩm,...

Tin liên quan

Đọc nhiều

Ứng dụng khoa học - kỹ thuật trong sản xuất nông nghiệp ở các huyện miền núi

Những năm qua, việc chuyển giao các tiến bộ khoa học - kỹ thuật (KHKT) vào sản xuất nông nghiệp đã mang lại những thay đổi tích cực trong nhận thức của người dân ở khu vực miền núi. Tuy còn gặp nhiều khó khăn, nhưng đã đạt được những kết quả khả quan, từ đó, góp phần nâng cao năng suất, chất lượng và giá trị sản phẩm,...

Ứng dụng khoa học - kỹ thuật trong sản xuất nông nghiệp ở các huyện miền núi

Mô hình trồng dưa Kim Hoàng Hậu tại xã Xuân Dương (Thường Xuân).

Là địa phương có điều kiện thuận lợi phát triển chăn nuôi gia súc, huyện Như Thanh đã chú trọng công tác tuyên truyền, vận động người dân phát huy tiềm năng, thế mạnh của địa phương, chuyển đổi từ chăn nuôi nhỏ lẻ sang chăn nuôi gia súc theo mô hình gia trại, trang trại. Nhất là, chú trọng thực hiện chuyển giao KHKT để nâng cao tầm vóc đàn gia súc, cũng như hạn chế dịch bệnh. Theo đó, mỗi năm huyện đã tổ chức phối giống cho từ 600 đến 800 con trâu, bò cái sinh sản. Các biện pháp KHKT đã được áp dụng, như: sử dụng tinh bò nhóm Zebu thuần phối giống cho đàn bò nội để nâng cao tầm vóc, sử dụng tinh bò BBB để phối giống với bò cái lai Zebu để tạo đàn bò thịt, sử dụng tinh trâu nội và tinh trâu Murrah để phối giống cho đàn trâu cái. Bên cạnh đó, huyện cũng đã triển khai nhiều hoạt động hỗ trợ, như: tổ chức các buổi hội thảo, tập huấn chia sẻ kinh nghiệm nhằm chuyển giao, ứng dụng tiến bộ KHKT vào chăn nuôi gia súc cho người dân. Có thể nói, việc ứng dụng phương pháp thụ tinh nhân tạo trong chăn nuôi gia súc đã hạn chế tối đa lây lan bệnh tật, khắc phục sự chênh lệch tầm vóc, khối lượng, nguồn con giống được kiểm soát, mang lại nhiều lợi ích thiết thực cho người dân. Hầu hết con lai F1 sau khi được sinh ra bằng phương pháp thụ tinh nhân tạo đều có tầm vóc cao hơn so với giống gia súc địa phương từ 20 – 30%. Việc ứng dụng KHKT vào chăn nuôi gia súc không chỉ làm thay đổi tập quán chăn nuôi cho người dân mà còn góp phần nâng cao chất lượng cho đàn trâu, bò; tạo bước đột phá trong việc nâng cao hiệu quả kinh tế trong quá trình chăn nuôi của địa phương.

Xác định KHKT là “chìa khóa” để nâng cao năng suất, chất lượng và giá trị sản phẩm nông nghiệp, thời gian qua, huyện tổ chức các lớp tập huấn, chuyển giao KHKT, nhằm trang bị thêm về kỹ thuật sản xuất, quy trình sản xuất rau, củ, quả theo tiêu chuẩn VietGAP, sử dụng thuốc bảo vệ thực vật an toàn, chăn nuôi an toàn dịch bệnh,... cho người dân.

Đối với giống lúa, huyện sản xuất rộng rãi các giống lúa có năng suất, chất lượng cao, như: VNR20, TBR225, BC15, Bắc Thơm số 7,... Qua khảo nghiệm cho thấy loại giống lúa này có những ưu điểm vượt trội, như có khả năng chống đổ ngả khá tốt, khả năng chịu rét tốt, bông lúa dài, tỷ lệ hạt lép thấp,... Bên cạnh đó, thực hiện đồng bộ các biện pháp kỹ thuật thâm canh tổng hợp; áp dụng cơ giới hóa,... Trên địa bàn huyện đã xây dựng nhiều mô hình, như: sản xuất dưa Kim Hoàng Hậu trong nhà lưới, liên kết sản xuất ớt xuất khẩu, trồng cây ăn quả tập trung,... Các KHKT mới đã được người dân ứng dụng, như: tưới tự động, tưới phun sương, tưới nhỏ giọt kết hợp bón phân qua nước theo công nghệ Netafim; cải tạo vườn vải, nhãn kém hiệu quả bằng phương pháp cắt ghép... Không chỉ dừng lại việc ứng dụng KHKT vào trồng trọt nhằm tăng năng suất, huyện Thường Xuân cũng đã chỉ đạo ứng dụng KHKT vào chăn nuôi, liên kết với các doanh nghiệp xây dựng mô hình chăn nuôi tập trung, ứng dụng công nghệ sinh học, như: làm hầm biogas, đệm lót sinh học, chế phẩm balasa,...

Từ các mô hình cho thấy, việc ứng dụng KHKT vào sản xuất nông nghiệp đã khẳng định được ưu thế vượt trội và yếu tố quyết định trong việc nâng cao năng suất cây trồng, vật nuôi, giá trị của sản phẩm. Đồng thời, nâng cao kỹ thuật canh tác và mang lại hiệu quả kinh tế cao cho người dân, giảm thiểu ô nhiễm môi trường... Các mô hình chuyển giao tiến bộ KHKT được triển khai, nhân rộng cũng đã và đang góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế từ 15 đến 20% so với diện tích sản xuất nông nghiệp truyền thống. Tuy nhiên, do điều kiện kinh tế, tập quán sản xuất của người dân,... nên việc ứng dụng KHKT trong sản xuất nông nghiệp ở các huyện miền núi còn gặp nhiều khó khăn, hạn chế; thực tế cho thấy, số hộ dân ứng dụng KHKT vào sản xuất chưa nhiều. Phần lớn người dân vẫn lo ngại khi ứng dụng KHKT năng suất cây trồng cao nhưng sản phẩm lại khó tiêu thụ dẫn đến tình trạng “được mùa, mất giá”... Bên cạnh đó, do thiếu cơ sở vật chất kỹ thuật, trình độ sản xuất nông nghiệp của người dân không đều nên việc áp dụng phương thức canh tác tiến bộ trên diện rộng còn hạn chế. Đồng thời, một số kết quả nghiên cứu KHKT có khả năng ứng dụng nhưng chưa được nhân rộng. Hầu hết, người dân còn lệ thuộc vào tập quán canh tác cũ, trình độ dân trí không đồng đều, tập quán sản xuất còn lạc hậu, tư tưởng sản xuất còn nhỏ lẻ nên ảnh hưởng không nhỏ tới việc chuyển giao tiến bộ KHKT...

Thời gian tới, ngoài việc khuyến khích người dân tiếp tục thực hiện cơ giới hóa, ứng dụng các tiến bộ KHKT, đưa các giống cây trồng, vật nuôi mới có năng suất, chất lượng cao vào sản xuất rất cần sự hỗ trợ của Nhà nước và doanh nghiệp trong việc tổ chức sản xuất và tiêu thụ sản phẩm để nông dân mạnh dạn thay đổi tập quán canh tác, ứng dụng tiến bộ KHKT mới vào sản xuất. Mặt khác, người nông dân cũng cần mạnh dạn thay đổi tư duy, cách làm cho phù hợp với yêu cầu của cơ chế thị trường, nâng khả năng cạnh tranh và giảm giá thành sản phẩm nông nghiệp...

Bài và ảnh: Lê Ngọc


Bài và ảnh: Lê Ngọc

 {name} - {time}

 Trả lời

{body}
 {name}- {time}
{body}

0 bình luận

Ý kiến của bạn sẽ được biên tập trước khi đăng. Vui lòng gõ tiếng Việt có dấu

Địa phương

Xem thêm TP.Thanh Hóa

Thời tiết

Chia sẻ thông tin với bạn bè!
Tắt [X]