(Baothanhhoa.vn) - Cách đây hơn 40 năm, tháng 11-1977, trong hai ngày 5 và 6, các nhà nghiên cứu văn hóa dân gian trên miền Bắc đã họp hội nghị tại Ty Văn hóa Thanh Hóa để xem biểu diễn báo cáo và cho ý kiến nhận định về giá trị trò diễn dân gian Tú Huần. Các đại biểu, đa số có chung một ý kiến: Đây là một hiện tượng lạ và hiếm, cần đi sâu nghiên cứu, phải có thời gian tìm tòi suy nghĩ. Nhưng thời gian không chờ đợi ai, nhiều đại biểu trụ cột đã ra đi (Vũ Ngọc Phan, Cao Huy Đỉnh, Lâm Tô Lộc, Nguyễn Khắc ...

Tin liên quan

Đọc nhiều

Ý nghĩa trò diễn Tú Huần

Cách đây hơn 40 năm, tháng 11-1977, trong hai ngày 5 và 6, các nhà nghiên cứu văn hóa dân gian trên miền Bắc đã họp hội nghị tại Ty Văn hóa Thanh Hóa để xem biểu diễn báo cáo và cho ý kiến nhận định về giá trị trò diễn dân gian Tú Huần. Các đại biểu, đa số có chung một ý kiến: Đây là một hiện tượng lạ và hiếm, cần đi sâu nghiên cứu, phải có thời gian tìm tòi suy nghĩ. Nhưng thời gian không chờ đợi ai, nhiều đại biểu trụ cột đã ra đi (Vũ Ngọc Phan, Cao Huy Đỉnh, Lâm Tô Lộc, Nguyễn Khắc Xương...) vấn đề đặt ra đến nay vẫn còn đang bỏ ngỏ.

Trò Tú Huần trong trò diễn Xuân Phả. Ảnh: Lê Công Bình

Theo số liệu sưu tầm thống kê, trong Báo cáo của Ty Văn hóa Thanh Hóa, trên đồng bằng duyên hải, ngành văn hóa đã phát hiện được 18 nơi có diễn trò Tú Huần. Đó là các làng, xã: Xuân Phả, Đông Anh, Thiên Linh, Xuân Tín, Thiệu Minh, Thiệu Đô, Thiệu Nguyên, Thiệu Hợp, Thiệu Thịnh, Thiệu Dương, Thiệu Khánh, Hoằng Hợp, Hoằng Quỳ, Hoằng Long, Hoằng Quang (hai điểm) Hoằng Trạch, Hoằng Yến, Đông Thanh. Còn đến hơn 10 làng chưa đủ cơ sở tư liệu để khẳng định.

Được đánh giá đặc sắc nhất là trò Lục Hồn Nhung, một tên gọi khác của Tú Huần. Nhà giáo Đỗ Ơm, người có công đầu giới thiệu và phục hồi “Ngũ trò Xuân Phả”, dân gian gọi nôm là “Trò Láng”. Sau bài viết của Đỗ Ơm đăng trên báo Tràng An (Hà Nội), một số nơi mời đội múa Xuân Phả đến biểu diễn, như Hà Nội, Hải Phòng, Huế, Sài Gòn trong những năm 1936, 1937, 1938. Năm 1939, viên Công sứ Pháp ở Tòa sứ Thanh Hóa biết tiếng “Ngũ trò Xuân Phả” cho tập luyện thật kỹ, chuẩn bị đưa sang Pháp biểu diễn tại hội chợ Đấu xảo Pa-ri, nhưng sau đó xảy ra chiến tranh thế giới lần thứ hai, đành hoãn lại... Mãi đến năm 1959, trong phong trào khôi phục vốn cổ dân tộc “Ngũ trò Xuân Phả” mới được địa phương khôi phục.

Đặc sắc và độc đáo nhất của trò Tú Huần Xuân Phả là các diễn viên đều hóa trang kỳ dị, đầu đội tóc rễ tre bù xù, đeo mặt nạ rất cổ quái. Trò diễn này dù mang tên Lục Hồn Nhung hay Tú Huần đều khó hiểu, xưa nay không ai giải thích được. Các nhà nghiên cứu văn hóa dân gian tại hội nghị nói trên đều cho rằng trò Tú Huần hay Lục Hồn Nhung, ngoài Thanh Hóa, trên miền Bắc không thấy ở tỉnh nào để có thể đối sánh trong nghiên cứu học thuật.

Nguồn gốc, sự tích “Ngũ trò Xuân Phả” tức năm trò: Ngô Quốc, Ai Lao, Huê Lang, Xiêm Thành, Lục Hồn Nhung, nhà giáo Đỗ Ơm cho biết các cụ xưa truyền lại sự tích:

Làng Láng Xuân Phả từ xa xưa thờ thần Đông Hải Đại vương để ngài phù hộ hàng năm thoát khỏi nạn lũ lụt vỡ đê sông Lương (sông Chu); thần có công âm phù Đinh Tiên Hoàng đế (?) đánh thắng giặc, được nhà vua đem năm nước chư hầu đến tiến cống, mỗi nước diễn một trò để tế thần, đó là: Ngô Quốc, Ai Lao, Huê Lang, Xiêm Thành, Lục Hồn Nhung, trò nước nào mang tên nước ấy. Đây là tài liệu quý nhưng có chỗ thiếu chính xác về sử liệu.

Lịch sử Việt Nam thời phong kiến tự chủ, nhiều nước đặt quan hệ ngoại giao, nhờ nước ta giúp đỡ. Như Ngô Quốc (không phải Trung Quốc mà là Tiểu Quốc Ngô Việt xưa nằm trong khối Bách Việt), Huê Lang (Chiêm Thành), Xiêm Thành (tức Xiêm La - Thái Lan), Ai Lao (thuộc vương quốc Vạn Tượng - Lạn Xạng - Bắc Lào), Lục Hồn Nhung (tiểu quốc Lục Hồn ở Nam Lào). Vì là dân tộc yếu bị xếp vào tứ di: Nam Man, Bắc Địch, Đông Di, Tây Nhung. Lục Hồn ở phía Tây nước ta nên gọi là “Nhung”. Đời Nguyễn, nước Lục Hồn tức Lục Hoàn vẫn thường tiến cống nước ta. Đông Hải Đại vương là thủy thần. Tỉnh ta nhiều nơi có sông nước thờ thần Đông Hải. Ngư dân miền biển cũng thờ thần Đông Hải với sự tích Nguyễn Phục đời Lê Thánh tông bởi vận tải quân lương bị bão tố đắm thuyền, nhà vua khép tội tử hình. Sau vua xét án biết oan tình cho làm thần, hiệu Đông Hải Đại vương. Đem thần Đông Hải gắn với Đinh Tiên Hoàng đế là không hợp lý.

Tại hội nghị nói trên, tôi hỏi nhà giáo Đỗ Ơm: Có phải “Trò Láng” (Xuân Phả) nếu không có nguồn gốc cũng có quan hệ với “Trò Rủn” (Đông Anh)? Nhà giáo Đỗ Ơm, nghĩ ngợi giây lát rồi trả lời: “Hình như thế thì phải”.

Tôi nghĩ: Đặt vấn đề nghiên cứu nguồn gốc và ý nghĩa trò diễn dân gian như trò Tú Huần là hết sức khó khăn, phức tạp. Vùng Kẻ Rủn thời Tùy - Đường (thế kỷ VI - VII) là trung tâm quận Cửu Chân (Thanh Hóa) do Lê Ngọc làm Thái thú. Ông người Trung Quốc lấy vợ Việt, sinh 4 con, ba trai, một gái. Năm 618, nhà Đường diệt nhà Tùy đem quân cướp phá Cửu Chân, Lê Ngọc cùng các con tập hợp dân chúng nổi dậy chống lại. Vì lực lượng mỏng, cả nhà Lê Ngọc hy sinh. Nhân dân nhiều nơi đời sau lập đền thờ. Vùng đất trung tâm Kẻ Rủ, trước năm 1945 là 3 tổng: Tuyên Hóa, Quảng Nạp, Thạch Khê, gồm 9 xã, nay thuộc các xã Đông Thịnh, Đông Xuân, Đông Anh, tổ chức lễ hội tại nghè Sâm (Đông Anh) tế năm cha con, anh em nhà Lê Ngọc. Trong lễ hội vào cuối tháng giêng âm lịch hàng năm diễn 5 trò, trong đó có trò Tú Huần để tế Cao Hoàng đế Lê Ngọc và 3 người con trai (sắc phong đại vương) và một con gái (sắc phong Trinh liệt thần Mẫu). Ngũ trò Rủn được truyền sang đất Kẻ Láng thành Ngũ trò Láng tức Ngũ trò Xuân Phả. Thời gian trôi qua, đất trời biến đổi, trong khi Ngũ trò Xuân Phả còn bảo lưu được nhiều nét cổ xưa của cái gốc Kẻ Rủn, thì ở Kẻ Rủn lại khó bảo tồn nguyên vẹn vốn cổ cha ông. Đó là lý do khác nhau giữa Tú Huần Đông Anh (tên xã mới) với Tú Huần Xuân Phả. Cho nên, xem múa Tú Huần Xuân Phả ta thấy thích hơn Tú Huần Đông Anh.

Trên đây, tôi đã nói qua ý nghĩa tên trò Lục Hồn Nhung. Còn Tú Huần là gì? Thì nó nằm ở ngay bài hát:

“Tú Huần là Tú Huần ta

Sớm mai rửa mặt đeo hoa ăn trầu

Tú Huần kia hỡi Tú Huần

Mẹ đi đánh trống lấy phần con ăn...” .

Tú Huần là tên bà mẹ và 10 con. Từ “Huần” do từ “Huân” biến âm. “Tú Huần” là đẹp đẽ thơm tho. Một số trò Tú Huần ở Hoằng Hóa, Thiệu Hóa... cả 10 con đều gọi là “Tú” kèm tên chính đặt theo đặc điểm. Ví dụ: Đứa thứ nhất ra đường hay gõ, mẹ đặt tên cho con là Tú Sênh; đứa thứ hai ăn nói lênh khênh, hay rượu cùng chè, mẹ đặt tên cho con là Tú Chén; đứa thứ ba tính người cần kiệm, hay liệu hay lo, mẹ mới đặt tên Tú Chí; đứa thứ tư buôn kim, bán chỉ, mẹ mới đặt tên là Tú Vá... Những cách giải thích Tú Huần là nước Tú Huần hay chính là Hú Huần hoặc tên ông Huần đỗ tú tài, sáng tác trò này truyền dạy những nơi ông đến làm thầy đồ... đều mang tính suy diễn, thiếu cơ sở khoa học.

Cần nói thêm, Ngũ trò Xuân Phả hay Đông Anh, Hoằng Hóa hay Thiệu Hóa, Kẻ Bôn (Đông Thanh) hay Kẻ Riềng (Thiên Linh)... đều thống nhất “Một mẹ mười con”. Riêng Xuân Phả thêm một nhân vật bố dượng hay cố già và một nhân vật người hầu. Điều khiển trò diễn chuyển từ nhân vật mẹ theo quy định truyền thống sang nhân vật bố dượng. Sự đổi khác này do sự can thiệp của viên công sứ Pháp khi chỉnh lý trò để đem đi đấu xảo ở hội chợ Pa-ri. (Bởi quan sứ không thích phụ nữ giữ vai trò chỉ huy chăng?) với trò Tú Huần, Kẻ Rủn (Đông Anh) chỉ có “một mẹ bốn con”. Có thể do thiếu người đóng vai hoặc lược bớt vì Ngũ trò Rủn khác Ngũ trò Láng và trò Tú Huần được xem là không quan trọng bằng các trò khác như Tiên Cuội, Múa đèn, Hà Lan, trò Thủy. Sách dân ca Thanh Hóa (NXB Văn học -1965) cho rằng trò Đông Anh và trò Xuân Phả có thể bắt nguồn từ điệu múa Chư hầu lai triều tổ chức năm 1456 tại Lam Kinh của triều vua Lê Nhân tông. Tôi có tham gia biên soạn sách này, không đồng ý cách suy diễn đem “râu ông nọ cắm cằm bà kia”, vì múa “Chư hầu lai triều” là múa cung đình, còn Xuân Phả, Đông Anh là múa dân gian, đời Lê hoàn toàn đối lập nhau về múa và nhạc, nhưng người viết lời giới thiệu cứ đưa bừa vào rồi thành chuyện “dĩ hư truyền hư”. Nhân đây, xin được đính chính.

Tại sao trò Tú Huần thường gọi là trò “Một mẹ mười con”? Dường như đó là quy định bất biến từ xưa không thể thay đổi. Lê Quý Đôn trong Kiến Văn tiểu lục ghi theo lời kể của sứ giả Trung Quốc Trần Cương Trung ở sứ Giao Châu tập cho biết đời Trần có điệu múa hát một người đàn bà và hơn mười người con trai quây quần dậm chân múa hát. Phải chăng từ điệu múa ấy phát triển thành múa Tú Huần? Có thể con số một (mẹ) và con số mười (con) chỉ là ngẫu nhiên trùng hợp. Nghĩa là câu trả lời hoàn toàn bỏ ngỏ, chờ ý kiến các bậc thức giả cao minh.

Con số “mười”, tôi cho rằng là con số tròn, con số chẵn, con số đầy đủ nhất, “mười phân vẹn mười”; con số tiêu biểu để tính không gian (ví dụ thập phương) và đo thời gian (ví dụ thập can: Giáp Ất...). Nó có ý nghĩa triết lý vũ trụ, nhân sinh. Với đạo cụ mõ và sênh, trên tay các nhân vật, lại mang ý nghĩa triết lý âm dương Đực - Cái (mõ là âm, dùi là dương, sênh tay phải là dương, sênh tay trái là âm) nguồn gốc của muôn loài vạn vật.

Âm nhạc trò Tú Huần ở trạng thái thô sơ, chưa có giai điệu, chủ yếu dựa theo âm thanh lời ca, bổ sung thêm tiếng đệm “ia”, tạo thành nhạc điệu và nhịp điệu đơn giản, tiết tấu lặp đi lặp lại, không phát triển, biến hóa, chỉ cần hình thức “trên sáu dưới tám” là hát được. Nó rất cần thiết vì nội dung lời ca nhằm giải thích, cũng góp phần minh họa cho điệu múa, mặc dù múa đã có ngôn ngữ của nó. Múa Tú Huần là múa tiết tấu, ngoài mõ, sênh có nơi thêm trống tiểu cổ, ở mức độ nào đó, đôi tay nghệ nhân cũng là “đạo cụ”. Trò Tú Huần có những câu hát nói kèm tiếng mõ, tiếng sênh: “Mẹ chàng sinh được mười con, con thời léo mõ, con thời rung sênh”, “Ới o cao cổ rỗ hoa, có viền léo mõ với ta thì viền - trước thời léo mõ lấy tiền, sau thời léo mõ kẻo duyên ta già!”. Ta chú ý từ “rung” và từ “léo”. Đặc biệt từ “léo” được nhắc đi nhắc lại nhiều lần. “Léo” là gì? Nói nôm na “léo” là “lẹo”. Xưa ở vùng Quảng Xương, Tĩnh Gia lưu truyền bài vè dân gian “Léo” dài 28 câu; câu nào cũng có ít nhất một từ “léo”. Vào Giáo đầu, trò Tú Huần giới thiệu ngay “Chẳng giấu gì, Tú Huần là tôi - Nghề léo mõ đố ai địch được!”. Mở đầu bài Vè Léo:

“Bống bống bang bang - Bống ở bên Biện bống sang bên Hòa; Tống Trân mà léo Cúc Hoa - Ông Tơ bà Nguyệt léo nhòa trên kinh; Người giòn léo với người xinh - Ta léo với mình, mình léo với ai?”... Đoạn kết bài Vè Léo: “Ới o gánh nước quang mây - Cho anh xin gáo tưới cây ngô đồng; Cây ngô đồng chưa trồng đã héo - O chưa chồng, O léo với ai?”!

Như vậy, từ “Léo” hiểu “Thanh” là kết đôi, đánh bạn, đi liền với nhau, hiểu “Thô” là lẹo, bám chắc, dính liền, nói “Chữ” là giao duyên, giao hòa, nói toạc móng heo là giao hợp, giao cấu! Từ bao đời nay, cả làng này, xã khác, trò Tú Huần đều diễn và hát như thế, không ai phê phán, rằng: Trước cửa đức thánh... rằng trước mặt quan viên... Đức thánh ư? Chắc ta biết “Nổ lội làng Ngang” ở trước đền, nhưng đức thánh không cho đắp, để phụ nữ lội qua ai cũng phải vén váy lên! Còn quan viên làng xã? Chúng ta nhớ câu ca dao: “Đẻ được một đứa con trai, cái đầu ông xã, cái tai ông trùm!”.

“Léo mõ” mô tả một cách đánh mõ độc đáo, không theo lối đánh mõ thông thường hay gõ mõ tụng kinh. Đó không phải là nghệ thuật. Đánh mõ thông thường âm thanh không có độ rung. Léo mõ cũng đánh cốc vào mõ, nhưng không vội nâng dùi lên mà vẫn để dùi áp sát, dí mạnh và rung tay. Đến “nhịp mạnh” sau, mới vung dùi tiếp tục đánh tiếng khác. Cách đánh sênh cũng tương tự như thế, nghĩa là vừa đánh hai tay vừa rung làm cho âm lượng tiếng sênh thông thường không có trường độ thành ra có trường độ (tạo ra độ rung cần thiết). Cách đánh mõ và sênh gọi là léo mõ và rung sênh đạt tới nghệ thuật cao, thấp, hay, dở, tùy thuộc đôi tay nghệ nhân. Cả hai nghệ thuật biểu diễn này đều có nguồn gốc từ tín ngưỡng phồn thực nguyên thủy, được phản ánh trên mặt trống đồng và đồ đồng Đông Sơn - sông Mã, những cảnh đánh trống, cặp đôi trai gái giữ cối, đôi cá sấu giao hoan, nam nữ cõng nhau thổi khèn, đàn hươu đực cùng hươu cái tìm nơi giao phối... Hiện nay tại một số địa phương còn sót lại dấu tích tín ngưỡng sinh thực khí bằng đá như Ngọc Đới (Quảng Xương)...

Cách diễn trò Tú Huần giống như mô phỏng một cảnh đi săn thời xưa. Theo hiệu lệnh của người nữ cầm cái, đoàn săn vừa tiến vào rừng núi vừa hú vang gọi nhau, cũng là làm giật mình loài thú, chúng kinh sợ chạy trốn giữa tiếng sênh mõ gõ liên hồi, dễ bị sa vào bẫy. Những động tác đánh “tứ cửa”, con trò “chụm chân nhảy” diễn tả con thú chạy trốn, “Quỳ một chân, chống sênh xuống đất” là con thú bị què một chân khuỵu xuống, nhảy “lặc cò cò” là con thú bị thương nhẹ... Sách Đông Quan Hán chí (Trung Quốc) nói người Cửu Chân (Thanh Hóa) giỏi nghề săn bắn. Trên vách đá hang Đồng Nội vẽ người đội đầu hươu, có lẽ người nguyên thủy hóa trang nhảy múa mừng thắng lợi sau cuộc săn. Cách hóa trang mặt nạ cổ quái, đầu tóc rễ tre bờm xờm của trò Tú Huần Xuân Phả và Đông Anh cũng là tái hiện lối múa hóa trang của người Cửu Chân giỏi nghề săn bắn...

Tại hội nghị tháng 11-1977, tôi đã phát biểu như vậy. Đến nay, 40 năm đã trôi qua, tôi vẫn giữ nguyên ý kiến đó. Bởi khuôn khổ của bài báo, tôi không thể đi sâu hơn vấn đề đã đặt ra.


Hoàng Tuấn Phổ

 {name} - {time}

 Trả lời

{body}
 {name} - {time}
{body}

0 bình luận

Ý kiến của bạn sẽ được biên tập trước khi đăng. Vui lòng gõ tiếng Việt có dấu

Địa phương

Xem thêm TP.Thanh Hóa

Thời tiết

Chia sẻ thông tin với bạn bè!
Tắt [X]