(Baothanhhoa.vn) - Sau ba năm triển khai thực hiện Nghị quyết số 16-NQ/TU ngày 20-4-2015 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa về tái cơ cấu ngành nông nghiệp đến năm 2020, định hướng đến năm 2025 theo hướng nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, khả năng cạnh tranh và phát triển bền vững, ngành nông nghiệp đã tham mưu cho UBND tỉnh xây dựng chương trình hành động, các đề án, dự án đầu tư, cơ chế, chính sách...

Tin liên quan

Đọc nhiều

Kết quả và những vấn đề đặt ra trong thực hiện tái cơ cấu ngành nông nghiệp

Sau ba năm triển khai thực hiện Nghị quyết số 16-NQ/TU ngày 20-4-2015 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa về tái cơ cấu ngành nông nghiệp đến năm 2020, định hướng đến năm 2025 theo hướng nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, khả năng cạnh tranh và phát triển bền vững, ngành nông nghiệp đã tham mưu cho UBND tỉnh xây dựng chương trình hành động, các đề án, dự án đầu tư, cơ chế, chính sách...

Đồng chí Mai Nhữ Thắng, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cùng đoàn công tác của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn kiểm tra lúa ở huyện Nông Cống. Ảnh: Hương Thơm

Cơ cấu cây trồng, vật nuôi đã được chuyển đổi theo hướng phát huy lợi thế và nhu cầu thị trường; sản xuất quy mô lớn, tập trung, sản xuất theo chuỗi giá trị sản phẩm được thúc đẩy; tạo điều kiện để doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn; nền nông nghiệp xứ Thanh đã có những chuyển biến toàn diện cả về chất và lượng. Trong thực hiện tái cơ cấu ngành nông nghiệp tỉnh ta đã đạt được những kết quả nổi bật. Đó là, tốc độ tăng trưởng về giá trị sản xuất ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản thời kỳ 2014 - 2017 đạt 3%. Tổng giá trị sản xuất nông, lâm, thủy sản tăng từ 36,2 nghìn tỷ (năm 2014) lên 37,7 nghìn tỷ (năm 2017); cơ cấu nông nghiệp giảm từ 77,5% (năm 2014) xuống còn 72,5% (năm 2017); lâm nghiệp và thủy sản tăng từ 5,9% lên 7,1% và 16,6% lên 20,3%.

Để đạt được kết quả trên, ngành nông nghiệp đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo và thực hiện tốt các nhiệm vụ được giao trên từng lĩnh vực. Nổi bật là đã thực hiện đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững. Lĩnh vực trồng trọt, đã thực hiện chuyển đổi cơ cấu giống, cơ cấu mùa vụ. Chuyển đổi 14.806 ha đất lúa và 4.625 ha đất mía kém hiệu quả sang trồng các loại cây trồng có giá trị cao hơn; tập trung phát triển 7 sản phẩm có lợi thế: Lúa thâm canh năng suất, chất lượng cao 132.000 ha (diện tích gieo trồng); ngô thâm canh 8.370 ha; rau an toàn 425,5 ha; mía thâm canh 7.350 ha, cây ăn quả 2.556 ha; hoa, cây cảnh 401 ha; cây làm thức ăn chăn nuôi 3.578 ha. Lĩnh vực chăn nuôi: Nâng cao hiệu quả chăn nuôi nông hộ theo hướng an toàn, bền vững. Chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm vật tư đầu vào (đàn giống, thức ăn, phụ gia bổ sung,...) và sản phẩm chăn nuôi được quản lý chặt chẽ hơn. Tập trung phát triển 5 sản phẩm có lợi thế: Bò sữa 6.500 con, bò thịt chất lượng cao 17,15 nghìn con, lợn hướng nạc 345 nghìn con, gà lông màu 5,8 triệu con, con nuôi đặc sản 791,75 nghìn con. Lĩnh vực lâm nghiệp: Đã hoàn thành việc rà soát, quy hoạch lại 3 loại rừng theo hướng tăng diện tích rừng sản xuất, đảm bảo yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội gắn với bảo vệ môi trường sinh thái. Năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế rừng ngày càng được cải thiện và nâng cao. Các sản phẩm lợi thế được chú trọng, tập trung phát triển: Rừng gỗ lớn 40.500 ha; khai thác dược liệu dưới tán rừng tự nhiên 94.000 ha; quế 650 ha; luồng thâm canh 20.360 ha. Lĩnh vực thủy sản: Chuyển đổi 880 ha diện tích ruộng trũng sản xuất 1 vụ lúa sang nuôi trồng thủy sản. Đẩy mạnh áp dụng thực hành nuôi trồng thủy sản tốt, nuôi trồng thủy sản có chứng nhận; phát triển các vùng nuôi thủy sản thâm canh ứng dụng công nghệ cao, bảo vệ môi trường sinh thái, phù hợp với yêu cầu của thị trường; chuyển dịch sang các đối tượng nuôi có giá trị cao và xuất khẩu. Cơ cấu khai thác thủy sản chuyển dịch tích cực, chuyển từ khai thác ven bờ sang khai thác xa bờ, sử dụng các phương tiện, máy móc hiện đại nhằm tăng hiệu quả sản xuất. Tập trung phát triển các sản phẩm có lợi thế: Tôm chân trắng 260 ha; ngao 1.500 ha; cá rô phi 30 ha; sản phẩm hải sản khai thác 171.509 tấn.

Nhanh chóng xây dựng và nhân rộng các mô hình sản xuất tập trung quy mô lớn; khuyến khích tích tụ ruộng đất theo quy định của pháp luật; phát triển sản xuất trồng trọt gắn với chế biến và xác định rõ một số vùng nguyên liệu tập trung cho các nhà máy chế biến, như: Lúa thâm canh 132.000 ha, mía 25.500 ha, sắn 9.860 ha, sản xuất hạt giống lúa lai F1 685,5 ha, cao su 17.735 ha, cói 3.300 ha... Xây dựng và nhân rộng các mô hình liên kết sản xuất có hiệu quả cao, như: Sản xuất hạt giống lúa lai F1 từ 550 - 750 ha/năm; sản xuất giống lúa thuần đạt gần 3.000 ha/năm; mô hình sản xuất mía thâm canh đạt 7.350 ha, trong đó diện tích mía thâm canh cao áp dụng cơ giới hóa đồng bộ đạt 1.464,8 ha; mô hình ứng dụng ngô biến đổi gen, quy mô 50 ha tại huyện Thọ Xuân; mô hình sản xuất lúa hữu cơ 283 ha của Công ty cổ phần (CTCP) Mía đường Lam Sơn; mô hình liên kết sản xuất khoai tây gần 1.000 ha của Công ty An Việt tại các huyện Hoằng Hóa, Hậu Lộc, Nga Sơn, Thiệu Hóa, Thọ Xuân, Triệu Sơn...; mô hình liên kết sản xuất rau quả tại các huyện Hậu Lộc, Yên Định, Hoằng Hóa..., đạt trên 5.000 ha/năm.

Trong chăn nuôi đã có sự chuyển biến rõ nét về tổ chức sản xuất, chuyển mạnh sang chăn nuôi tập trung, quy mô lớn, công nghệ cao, nhất là phát triển trang trại. Đã thu hút và triển khai thực hiện các dự án chăn nuôi quy mô lớn, như: CTCP Sữa Việt Nam (Vinamilk) đã xây dựng Trại bò Thanh Hóa 2 tại Phú Nhuận, Như Thanh; Công ty TNHH bò sữa Thống Nhất Thanh Hóa xây dựng các trang trại bò sữa quy mô 16.000 con; CTCP ứng dụng công nghệ cao nông nghiệp và thực phẩm sữa TH đầu tư dự án bò sữa với quy mô 20.000 con; CTCP chăn nuôi Bá Thước đầu tư dự án bò thịt chất lượng cao, quy mô 20.000 bê được nhập về từ Úc; CTCP thức ăn chăn nuôi Thái Dương đầu tư dự án liên hợp sản xuất thức ăn chăn nuôi, chăn nuôi lợn và chế biến nông sản với quy mô 100.000 tấn/năm và 70.000 con lợn...

Trong lâm nghiệp, đã từng bước hình thành vùng nguyên liệu gỗ lớn, gỗ nhỏ, luồng thâm canh, nứa vầu, cây đặc sản cung cấp nguyên liệu cho các nhà máy chế biến lớn của tỉnh: Nhà máy chế biến gỗ Thành Nam (Như Xuân), công suất 180.000m3 sản phẩm/năm; Công ty TNHH Thanh Thành Đạt (Tĩnh Gia), công suất 30.000 tấn sản phẩm/năm; Công ty TNHH Thanh Hòa (Tĩnh Gia), công suất 30.000 tấn sản phẩm/năm; Công ty TNHH Innogreen (Tĩnh Gia) công suất 20.000 tấn sản phẩm/năm.

Trong thủy sản, cơ cấu và năng lực tàu thuyền chuyển theo hướng giảm số tàu có công suất dưới 30CV, tăng tàu có công suất từ 90 CV trở lên. Đến hết năm 2017, toàn tỉnh có tổng số 7.447 tàu cá, tổng công suất đạt 576.000 CV, công suất bình quân 84,8 CV/tàu, số lượng tàu khai thác xa bờ 1.801 tàu (tăng 469 tàu so với năm 2014).

Đẩy mạnh phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp an toàn, nông nghiệp tinh hoa; đã nghiên cứu, chọn tạo thành công 8 giống lúa (trong đó: Có 6 giống đã được công nhận giống quốc gia: Thanh ưu 3, Thanh ưu 4, Thanh Hoa ưu 1, Thuần Việt 1, Thuần Việt 2, Hồng đức 9; 2 giống được công nhận cho sản xuất thử: Lam Sơn 8, Thuần Việt 7; 2 giống mía (LS1 và LS2). Tiếp nhận, nghiên cứu hoàn thiện và làm chủ công nghệ, quy trình sản xuất hạt giống lúa lai, lúa thuần, ngô lai F1, từ đó đưa vào sản xuất giống lúa lai F1 với quy mô khoảng 700 ha/năm (là tỉnh có diện tích sản xuất hạt giống lúa lai lớn nhất miền Bắc), giống lúa thuần khoảng 3.000 ha/năm, ngô lai F1 khoảng 450 ha/năm. Xây dựng thành công mô hình sản xuất lúa theo phương pháp hữu cơ, hàm lượng các bon thấp, giảm phát thải khí nhà kính đạt trên 140 ha; phục tráng các cây trồng tại địa phương (như lúa nếp hạt cau, bưởi Luận Văn); mở rộng diện tích sản xuất rau, hoa quả công nghệ cao trong nhà có mái che đạt 425,5 ha; ứng dụng công nghệ nuôi cấy mô để nhân giống cây trồng đạt hàng triệu cây/năm (hoa đồng tiền, hoa lan, mía, giống bưởi Luận Văn).

Ứng dụng thành công công nghệ thụ tinh nhân tạo bằng tinh phân giới tính cho bò sữa, thụ tinh nhân tạo nâng cao tầm vóc đàn bò, phối giống cho 30.000 - 40.000 bò cái nền có chửa hàng năm; nghiên cứu đánh giá, tuyển chọn bò đực giống tại Moncada để sản xuất tinh đông lạnh phục vụ công tác giống bò Việt Nam; đưa các giống mới vào sản xuất nên năng suất, chất lượng sản phẩm thịt, trứng, sữa được nâng cao. Sử dụng các chế phẩm sinh học trong thức ăn chăn nuôi tăng khả năng hấp thu dinh dưỡng của vật nuôi. Xây dựng thành công các mô hình trang trại chăn nuôi tập trung với quy mô lớn, áp dụng hệ thống chuồng kín, nuôi sàn, điều hòa ẩm độ và nhiệt độ, xử lý chất thải và kiểm soát dịch bệnh đã mang lại hiệu quả kinh tế cao cho người sản xuất.

Ứng dụng thành công công nghệ nuôi cấy mô thực vật, vi ghép trong sản xuất giống cây lâm nghiệp, cây ăn quả. Hàng năm sản xuất được gần 1 triệu cây mô, hom, 30 triệu cây giống keo tai tượng Úc có năng suất, chất lượng cao. Ứng dụng công nghệ thông tin, công nghệ viễn thám và hệ thống GIS lập bản đồ trường nhiệt phục vụ công tác cảnh báo cháy rừng, hệ thống định vị toàn cầu (GPS) trong công tác theo dõi, cập nhật, quản lý dữ liệu ngành lâm nghiệp và quản lý các dự án lâm nghiệp được ứng dụng hiệu quả. Xây dựng thành công các mô hình thâm canh, phục tráng rừng luồng, đưa năng suất cây luồng từ 2.100 cây/ha lên 3.600 cây/ha, chất lượng rừng được nâng cao, làm cơ sở đầu tư cho các vùng luồng thâm canh tập trung. Nhiều mô hình nông lâm kết hợp, mô hình trang trại rừng, mô hình trồng rừng gỗ lớn, có năng suất cao đã được tổng kết, đánh giá nhân ra diện rộng.

Tiếp nhận và làm chủ công nghệ điều khiển giới tính để sản xuất giống cá rô phi đơn tính đực; công nghệ sản xuất giống tôm sú; công nghệ sản xuất giống và nuôi thương phẩm cua xanh, ngao Bến Tre trong ao đất, cá bống bớp, cá lăng chấm, cá dốc. Xây dựng thành công mô hình sản xuất tôm chân trắng thâm canh hiện đại, đã đầu tư hệ thống ao nuôi tại các huyện ven biển tạo thành vùng sản xuất hàng hóa lớn, ổn định, mang lại hiệu quả kinh tế cao, sản xuất từ 2 - 3 vụ/năm, với diện tích 170 ha, năng suất đạt trên 11 tấn/ha. Ứng dụng máy dò ngang Sonar vào các tàu cá làm nghề lưới vây rút chì, lưới kéo đôi, đem lại sản lượng khai thác các đối tượng thủy sản cao hơn. Sử dụng đụt lưới mắt vuông cho nghề lưới kéo đáy, khai thác ghẹ bằng nghề lồng bẫy, đem lại năng suất và thu nhập cao cho bà con ngư dân. Tàu cá khai thác xa bờ dài ngày đã áp dụng lắp đặt hầm bảo quản sản phẩm bằng PU (Polyurethane) để bảo quản tốt sản phẩm hải sản, giảm hao hụt nước đá, kéo dài thời gian chuyến đi, nâng cao chất lượng sản phẩm và hiệu quả kinh tế cho bà con ngư dân.

Tăng cường công tác quản lý chất lượng vật tư nông nghiệp và chất lượng sản phẩm nông nghiệp, đặc biệt là giải quyết triệt để tình trạng sử dụng chất cấm trong nông nghiệp: Hàng năm triển khai công tác đảm bảo an toàn thực phẩm trong lĩnh vực nông nghiệp; triển khai xây dựng và phát triển các vùng sản xuất áp dụng quy trình thực hành sản xuất nông nghiệp tốt, đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm; có 42 cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm nông lâm thủy sản tham gia các chuỗi cung ứng thực phẩm an toàn (trong đó có 15 cơ sở với 18 địa chỉ kinh doanh được giám sát, xác nhận sản phẩm an toàn theo quy định và công khai danh sách); 94 cửa hàng kinh doanh thực phẩm nông lâm thủy sản được chứng nhận đủ điều kiện an toàn thực phẩm.

Tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo phát triển liên kết sản xuất; xác định đây là hướng đi tất yếu để nâng cao giá trị gia tăng các sản phẩm nông nghiệp; nhiều chuỗi liên kết sản xuất đã và đang hình thành, đi vào chiều sâu, phát triển rõ nét và bền vững, trong đó doanh nghiệp làm trung tâm để liên kết với các tổ chức sản xuất. Trong trồng trọt: Các công ty mía đường trên địa bàn tỉnh đã ký hợp đồng sản xuất, cung ứng vật tư và tiêu thụ toàn bộ sản phẩm nguyên liệu mía trên địa bàn tỉnh (18 huyện) với tổng sản lượng trên 2 triệu tấn/năm. Các nhà máy chế biến tinh bột sắn tại các huyện Bá Thước, Như Xuân, Ngọc Lặc đã ký hợp đồng thu mua nguyên liệu tại các vùng sản xuất, tiêu thụ toàn bộ sản phẩm nguyên liệu sắn với tổng công suất gần 2.000 tấn/ngày; chuỗi liên kết sản xuất lúa theo phương pháp hữu cơ, quy mô 100 ha ở vụ xuân và 180 ha ở vụ mùa tại huyện Thiệu Hóa... Trong chăn nuôi: Bước đầu đã hình thành liên kết chuỗi chăn nuôi bò sữa của Công ty TNHH bò sữa Thống Nhất Thanh Hóa (Vinamilk); CTCP nông sản Phú Gia sản xuất, chế biến, kinh doanh thực phẩm sạch theo chuỗi; Công ty TNHH Hoa Mai và CTCP súc sản Hàm Rồng giết mổ, chế biến lợn sữa; CTCP nông sản, thực phẩm Việt Hưng sản xuất, chế biến, kinh doanh thực phẩm sạch theo chuỗi. Trong lâm nghiệp: Bước đầu đã hình thành liên kết giữa người trồng rừng và các cơ sở chế biến, tiêu thụ sản phẩm trong lâm nghiệp; khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi về đất đai, giải phóng mặt bằng để kêu gọi các doanh nghiệp đầu tư chế biến theo chiều sâu (ván ghép thanh, ván MDF, các sản phẩm chế biến luồng...). Thực hiện cấp chứng chỉ rừng bền vững FSC (tổ chức sản xuất theo chuỗi sản phẩm từ sản xuất cây giống, trồng rừng, thu mua nguyên liệu, chế biến và tiêu thụ sản phẩm) đối với 2 sản phẩm lợi thế của lâm nghiệp của tỉnh là cây luồng và rừng gỗ lớn tại Thạch Thành và Quan Hóa. Trong thủy sản: Xây dựng 10 tổ cộng đồng liên kết trong sản xuất nuôi tôm tại các huyện Nga Sơn, Hậu Lộc, Hoằng Hóa và Quảng Xương. Tổ chức lại sản xuất trên biển theo mô hình tổ đoàn kết đối với khai thác vùng biển khơi và mô hình đồng quản lý đối với vùng biển ven bờ; toàn tỉnh có 340 tổ đoàn kết trên biển, tăng 140 tổ so với năm 2014.

Bên cạnh những kết quả tích cực đạt được, tái cơ cấu ngành nông nghiệp trên địa bàn tỉnh vẫn còn những vấn đề đặt ra cần phải giải quyết. Theo đó, cần tiếp tục phổ biến, quán triệt sâu sắc đường lối, chủ trương của Đảng, của Tỉnh ủy về tầm quan trọng trong việc thực hiện cơ cấu lại nông nghiệp đến các ngành, địa phương và người dân; tăng cường vai trò, trách nhiệm của lãnh đạo các cấp, ngành, địa phương, khuyến khích sự tham gia của các tổ chức xã hội nhằm tạo sức mạnh tổng hợp để tổ chức thực hiện hiệu quả chủ trương này. Hai là, tiếp tục triển khai thực hiện có hiệu quả các chính sách của Trung ương, của tỉnh về phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới; đồng thời rà soát, sửa đổi, bổ sung đối với những chính sách của tỉnh ban hành, kiến nghị với Chính phủ và các bộ, ngành Trung ương sửa đổi, bổ sung đối với chính sách của Trung ương ban hành phù hợp với thực tế và hiệu quả hơn tạo động lực mới cho phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn; tạo điều kiện để nông dân và doanh nghiệp tiếp cận thuận lợi hơn về đất đai, nguồn vốn và thị trường để mở rộng sản xuất hàng hóa có khả năng cạnh tranh cao đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế và ứng phó với biến đổi khí hậu, chỉ đạo đẩy mạnh tích tụ, tập trung đất đai phục vụ phát triển nông nghiệp quy mô lớn, công nghệ cao nhằm phát triển nông nghiệp, sản xuất hàng hóa quy mô lớn, tạo điều kiện để doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn. Bốn là, tiếp tục đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững, phù hợp với điều kiện biến đổi khí hậu, lợi thế của địa phương và nhu cầu thị trường; chuyển đổi linh hoạt đất lúa năng suất thấp, kém hiệu quả sang các loại cây trồng hiệu quả cao hơn; tập trung phát triển các sản phẩm có lợi thế của tỉnh. Năm là, đổi mới và phát triển các HTX nông nghiệp, phát triển trang trại theo hướng chú trọng hơn tới việc tổ chức nông dân sản xuất hàng hóa quy mô lớn, chất lượng cao; hỗ trợ và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, HTX, cơ sở, làng nghề xây dựng thương hiệu sản phẩm, xây dựng chỉ dẫn địa lý, đăng ký bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp; xây dựng theo mô hình “Mỗi xã một sản phẩm”, tiến tới xây dựng các thương hiệu cho nông sản của xứ Thanh. Sáu là, tiếp tục đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng đồng bộ tiến bộ khoa học - kỹ thuật vào sản xuất, nhất là công nghệ 4.0 trong sản xuất giống, quy trình sản xuất và chế biến; tập trung phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp an toàn, nông nghiệp tinh hoa nhằm tạo đột phá về năng suất, chất lượng cây trồng, vật nuôi, đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm và nâng cao khả năng cạnh tranh, hiệu quả, bảo vệ sức khỏe, quyền lợi của người tiêu dùng, đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế. Bảy là, tiếp tục huy động các nguồn lực xã hội để phát triển kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn, nhất là nguồn lực của các doanh nghiệp đầu tư vào sản xuất nông nghiệp; thúc đẩy hoạt động đầu tư theo hình thức đối tác công tư để phát triển kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn ngày càng hiện đại, đáp ứng yêu cầu của nền sản xuất hàng hóa quy mô lớn, hội nhập quốc tế; tăng cường năng lực phòng chống, giảm nhẹ thiên tai, thích ứng với biến đổi khí hậu và xây dựng nông thôn mới. Tám là, tăng cường đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh; đẩy mạnh cải cách hành chính nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý ngành, trọng tâm là: Sắp xếp tổ chức bộ máy ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả theo tinh thần Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25-10-2017, Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII.

TS. Mai Nhữ Thắng

Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn



 {name} - {time}

 Trả lời

{body}
 {name}- {time}
{body}

0 bình luận

Ý kiến của bạn sẽ được biên tập trước khi đăng. Vui lòng gõ tiếng Việt có dấu

Địa phương

Xem thêm TP.Thanh Hóa

Thời tiết

Chia sẻ thông tin với bạn bè!
Tắt [X]