(Baothanhhoa.vn) - Báo Thanh Hóa giới thiệu các ý kiến góp ý các dự thảo văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng.

Góp ý kiến vào các dự thảo văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng

Báo Thanh Hóa giới thiệu các ý kiến góp ý các dự thảo văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng.

Góp ý kiến vào các dự thảo văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng

Kiên quyết loại bỏ những dự án gây ô nhiễm môi trường

Qua nghiên cứu dự thảo Văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng, tôi thấy bố cục các văn kiện rõ ràng, cụ thể, chặt chẽ và khoa học. Phần đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XII và diện mạo đất nước sau 35 năm đổi mới khá xúc tích, đánh giá được các mặt được và chưa được so với giai đoạn 2011 - 2015.

Góp ý kiến vào các dự thảo văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng

Tôi hoàn toàn nhất trí với nội dung dự thảo các văn kiện, đánh giá tổng quát 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XII, nhất trí với đánh giá chung về 10 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước, 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020; 30 năm thực hiện Cương lĩnh 1991; 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới. Các quan điểm về chiến lược phát triển kinh tế - xã hội nước ta trong thời gian tới đã được thể hiện rất rõ ràng.

Tôi đề xuất lựa chọn mục tiêu phát triển đất nước giai đoạn 2021 - 2030 theo phương án 2: “Đến năm 2030 trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại thuộc nhóm trên của các nước có thu nhập trung bình cao. Đến năm 2045 là nước công nghiệp hiện đại có thu nhập cao”.

Đối với nội dung tăng cường quốc phòng - an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, tôi thống nhất cao với quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ về quốc phòng - an ninh, đối ngoại trong tình hình mới. Tuy nhiên, theo tôi, cần bổ sung một số nội dung như: Chủ động đánh giá, phân tích dự báo tình hình thế giới và khu vực để có chủ trương, chính sách phù hợp, nhất là các vấn đề biên giới, biển đảo, an ninh phi truyền thống, an ninh mạng, an ninh nông thôn.

Ở phần định hướng phát triển giai đoạn 2021 - 2030, trong định hướng thứ 6, đề nghị nhấn mạnh vấn đề bảo đảm chất lượng môi trường sống, nên sửa thành: Chủ động ứng phó có hiệu quả với biến đổi khí hậu, phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai; quản lý, khai thác, sử dụng hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả và bền vững tài nguyên; lấy bảo đảm chất lượng môi trường sống và sức khỏe Nhân dân làm mục tiêu hàng đầu, bảo vệ đa dạng sinh học và hệ sinh thái; xây dựng nền kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, thân thiện với môi trường; kiên quyết loại bỏ những dự án gây ô nhiễm môi trường.

Trang 34, về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, nâng cao nguồn nhân lực, phát triển con người, đề nghị sửa thành: Tiếp tục đổi mới đồng bộ mục tiêu, nội dung, chương trình, phương thức, phương pháp giáo dục và đào tạo theo hướng hiện đại, hội nhập quốc tế, có khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu và tình hình thiên tai dịch bệnh nhằm phát triển con người toàn diện, đáp ứng những yêu cầu phát triển mới của kinh tế - xã hội, của khoa học và công nghệ và cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4.

Công tác phòng, chống tham nhũng mặc dù đã đạt được nhiều kết quả, tuy nhiên chưa thật sự đồng bộ và có tính răn đe cao. Do đó, cần nghiên cứu chủ trương, đổi mới, chỉnh đốn hệ thống chính trị gắn với đổi mới, chỉnh đốn Đảng.

Về thi hành Điều lệ Đảng, vẫn còn những hạn chế, vướng mắc, bất cập trong thi hành Điều lệ Đảng, chủ yếu liên quan đến nội dung trong các quy định, hướng dẫn của Trung ương. Do đó không cần bổ sung, sửa đổi Điều lệ Đảng hiện hành mà giao cho Bộ Chính trị, Ban Bí thư sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới các quy định, cơ quan chuyên môn như Ban Tổ chức Trung ương, Ủy ban Kiểm tra Trung ương ban hành hướng dẫn thực hiện.

Tôi tin tưởng và kỳ vọng Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng sẽ đưa ra được chiến lược phát triển đất nước nhanh, bền vững hơn. Từ đó, nâng cao đời sống nhân dân, có văn hóa - xã hội phát triển, đồng thời giữ gìn được các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc, bảo đảm quốc phòng - an ninh, giữ vững chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, tạo môi trường hòa bình, ổn định để phát triển.

Mai Thị Hải

(Agribank Thanh Hóa)

Định hướng, quản lý tốt sự ra đời, hoạt động của các tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp

Qua nghiên cứu Dự thảo văn kiện Đại hội XIII của Đảng, tôi đánh giá rất cao và hoàn toàn đồng tình với nội dung trong Dự thảo các văn kiện.

Góp ý kiến vào các dự thảo văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng

Các dự thảo văn kiện được chuẩn bị công phu, kỹ lưỡng, nội dung sâu sắc, có tính khái quát cao, có nhiều điểm mới, bám sát thực tiễn đất nước; bố cục hợp lý, văn phong mạch lạc, rõ ràng; thể hiện tính khách quan, toàn diện trong đánh giá các thành tựu, kết quả đạt được, khuyết điểm, yếu kém và nguyên nhân cũng như trong xác định phương hướng, mục tiêu, quan điểm, nhiệm vụ, giải pháp phù hợp trong từng văn kiện.

Đối với tổ chức công đoàn, tôi quan tâm đến nội dung được trình bày trong Dự thảo Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII) tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, đó là: “Định hướng, quản lý tốt sự ra đời, hoạt động của các tổ chức của người lao động (NLĐ) tại doanh nghiệp (DN)”.

Tại Chương 13, Bộ Luật Lao động năn 2019 quy định về “Tổ chức đại diện NLĐ tại cơ sở” cho phép NLĐ được thành lập, gia nhập tổ chức đại diện của mình, các tổ chức này có thể ngoài hệ thống của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam. Tổ chức này cũng đảm nhận chức năng đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của NLĐ; tham gia quản lý kinh tế - xã hội, quản lý Nhà nước và tổ chức, giáo dục, vận động NLĐ. Như vậy, từ ngày 1-1-2021, pháp luật Việt Nam thừa nhận thêm một loại hình tổ chức đại diện cho NLĐ, đó là “Tổ chức của NLĐ”.

Lần đầu tiên, vấn đề nhiều tổ chức đại diện cho NLĐ được quy định và áp dụng tại Việt Nam dẫn đến sự tất yếu phải cạnh tranh, thu hút đoàn viên công đoàn với tổ chức đại diện NLĐ được thành lập tại cơ sở.

Tổ chức công đoàn Việt Nam sẽ đứng trước sự cạnh tranh với nhiều yếu tố bất lợi, vì vậy để định hướng, quản lý tốt sự ra đời, hoạt động của các tổ chức của NLĐ tại DN, tôi đề nghị Chính phủ và Bộ Lao động Thương binh và Xã hội sớm ban hành nghị định và các thông tư hướng dẫn thực hiện quy định về tổ chức của NLĐ một cách chi tiết, trong đó cần xem xét phạm vi chủ thể có quyền thành lập tổ chức của NLĐ; quy định cụ thể về điều kiện cấp phép, thu hồi đăng ký tổ chức của NLĐ; trình tự, thủ tục thành lập, giải thể, đình chỉ tổ chức của NLĐ; tổ chức của NLĐ tại DN chỉ được thành lập và hoạt động hợp pháp khi cơ quan, Nhà nước có thẩm quyền cấp đăng ký; quá trình hoạt động phải tuân thủ hiến pháp, pháp luật và điều lệ, nếu vi phạm thì thu hồi đăng ký.

Cần có các tiêu chí hạn chế các đối tượng là quản lý của DN tham gia vào quá trình thành lập và hoạt động của “Tổ chức của NLĐ”, giảm thiểu sự can thiệp, chi phối, thao túng của chủ sử dụng lao động đến hoạt động của “Tổ chức của NLĐ”. Cần quy định rõ vấn đề tài chính của “Tổ chức của NLĐ”.

Đề nghị Quốc hội sớm ban hành Luật Công đoàn sửa đổi để phù hợp với Bộ Luật Lao động năm 2019 và các văn bản pháp luật có liên quan, kịp thời đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ của tổ chức công đoàn Việt Nam trong tình hình mới, đặc biệt khi phải cạnh tranh với “Tổ chức của NLĐ”.

Vấn đề cho phép thành lập “Tổ chức đại diện NLĐ” có liên quan đến nhiều luật khác nhau nên với vai trò là luật gốc, Bộ Luật Lao động năm 2019 chỉ quy định các vấn đề chung, cơ bản mang tính định hướng, không quy định quá chi tiết tránh sự chồng chéo giữa các văn bản quy phạm pháp luật, vì vậy trong quá trình triển khai thực hiện, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam cần chỉ đạo các cấp công đoàn tiếp tục nghiên cứu, rút kinh nghiệm để kiến nghị Quốc hội, Chính phủ rà soát, chỉnh sửa quy định của pháp luật nhằm bảo đảm phù hợp với điều kiện thực tiễn tại Việt Nam và luật pháp quốc tế.

Hà Xuân Thành

Phó Chủ tịch Liên đoàn Lao động tỉnh

Tiếp tục coi trọng vai trò của công tác dân vận

Nghị quyết Đại hội XII của Đảng tiếp tục được bổ sung những nội dung quan trọng về công tác dân vận, nhằm đáp ứng yêu cầu của tình hình mới. Đó là: Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng về công tác dân vận trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng thành chính sách, pháp luật phù hợp với thực tiễn và đáp ứng lợi ích, nguyện vọng chính đáng của Nhân dân. Quan tâm thể chế hóa mối quan hệ “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ” và phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Tăng cường và đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác dân vận của các cơ quan Nhà nước. Thực hiện tốt Quy chế công tác dân vận của hệ thống chính trị. Quan tâm đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chuyên trách làm công tác dân vận.

Góp ý kiến vào các dự thảo văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng

Những năm qua, quán triệt sâu sắc Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, Nghị quyết 25-NQ/TW, ngày 3-6-2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) về “Tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới”, công tác dân vận ở các cấp, ngành đã được tăng cường và đổi mới mạnh mẽ gắn với công tác xây dựng Đảng. Theo đó, MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội các cấp đã chú trọng đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, hướng về cơ sở, gần dân, sát dân, giải quyết kịp thời nguyện vọng chính đáng của Nhân dân. Các phong trào thi đua yêu nước, phong trào thi đua “Dân vận khéo”, gắn với việc học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh được triển khai rộng khắp, góp phần to lớn vào sự phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng - an ninh, đối ngoại của đất nước; xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, củng cố lòng tin của Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước.

Trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập kinh tế quốc tế, tôi mong rằng Đại hội lần thứ XIII của Đảng sẽ tiếp tục coi trọng vai trò của công tác dân vận trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; xây dựng Đảng, Nhà nước và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh trong tình hình mới. Trọng tâm là tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức, hành động của các cấp uỷ đảng, hệ thống chính trị về công tác dân vận; có cơ chế phát huy vai trò của Nhân dân tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước và hệ thống chính trị.

Bên cạnh đó, tiếp tục nêu cao tinh thần, trách nhiệm của chính quyền các cấp đối với công tác dân vận; đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước và phong trào thi đua “Dân vận khéo” trong các tầng lớp Nhân dân; tuyên truyền, biểu dương, nhân rộng mô hình, điển hình hay về công tác dân vận. Đồng thời, đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội, nhằm phát huy sức mạnh to lớn của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Tiếp tục hoàn thiện, cụ thể hoá và thực hiện tốt cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ” và phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Kiện toàn tổ chức, bộ máy, chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác dân vận các cấp, nhất là vùng đồng bào dân tộc miền núi. Thực hiện Quy chế công tác dân vận của hệ thống chính trị và cơ chế phối hợp giữa chính quyền, các cơ quan với MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội các cấp; tích cực đôn đốc, kiểm tra, giám sát việc thực hiện các chỉ thị, nghị quyết, kết luận của Đảng về công tác dân vận.

Phạm Thị Thu

Trưởng ban Dân vận Huyện ủy, Chủ tịch Ủy ban MTTQ huyện Ngọc Lặc

Tiếp tục đẩy mạnh cải cách tư pháp, đảm bảo thượng tôn pháp luật

Dự thảo Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã được chuẩn bị công phu, chu đáo, toàn diện, khoa học và sâu sắc, đánh giá tổng quát tình hình, kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội hội Đảng toàn quốc lần thứ XII.

Góp ý kiến vào các dự thảo văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng

Qua đó cho thấy, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đã nỗ lực phấn đấu vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ trọng tâm, đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Đất nước tiếp tục phát triển nhanh và khá toàn diện trên hầu hết các lĩnh vực, tạo nhiều dấu ấn nổi bật. Kinh tế vĩ mô ổn định, tăng trưởng được duy trì ở mức cao; sức cạnh tranh, tiềm lực và quy mô nền kinh tế được nâng lên. Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị được đặc biệt quan tâm, đạt nhiều kết quả rõ rệt. Công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực chuyển biến mạnh mẽ, có bước đột phá, quyết liệt, có hiệu quả, ngày càng đi vào chiều sâu, kết hợp chặt chẽ giữa “xây” và “"chống”.

Sự thống nhất, phối hợp giữa Đảng, Nhà nước, Mặt trận tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội được tăng cường. Chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng - an ninh không ngừng được củng cố, kiên quyết, kiên trì giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng và hiệu quả; vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao.

Có thể nói, đất nước chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín như ngày nay. Đây là niềm tự hào, động lực, nguồn lực quan trọng, là niềm tin để toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta vượt qua mọi khó khăn, thách thức, tiếp tục vững bước trên con đường đổi mới toàn diện, đồng bộ; phát triển đất nước nhanh và bền vững.

Sau khi nghiên cứu Dự thảo văn kiện, tôi thống nhất cao với quan điểm chỉ đạo, mục tiêu phát triển, định hướng, nhiệm vụ, giải pháp trong thời kỳ tới. Đề nghị quan tâm một số nội dung như sau: Xây dựng, hoàn thiện cơ chế giám sát quyền lực; tăng cường hoạt động giám sát, kiểm tra hoạt động thực hiện nhiệm vụ của cán bộ, công chức, viên chức, đảng viên và cơ quan, tổ chức, đơn vị bằng nhiều hình thức kiểm tra từ bên trong và kiểm tra từ bên ngoài vào, từ trên xuống, nhằm đảm bảo chính xác, khách quan, toàn diện, xử lý kịp thời, nghiêm minh. Cán bộ, công chức, viên chức, chiến sỹ lực lượng vũ trang phải thực hiện nghĩa vụ công khai và giải trình khi thực thi nhiệm vụ theo quy định.

Hoàn thiện cơ chế đảm bảo thực hiện quyền công dân toàn diện, thiết thực, tránh hình thức. Nhân dân có quyền giám sát hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị lực lượng vũ trang theo quy định cụ thể, rõ ràng. Mọi cá nhân thực thi nhiệm vụ xâm phạm quyền dân chủ, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân đều phải được giải quyết tại tòa án theo pháp luật.

Có thể chế cụ thể, toàn diện nhằm đảm bảo trên thực tế mọi quyền lợi hợp pháp của công dân được thực hiện thuận lợi tối đa. Xóa bỏ mọi hình thức quản lý, kiểm tra phiền hà, nhũng nhiễu, hạch sách, vòi vĩnh, tham nhũng, tiêu cực… gây bất lợi cho đời sống và hoạt động sản xuất, kinh doanh hoặc tham gia hoạt động xã hội theo pháp luật của Nhân dân.

Hoàn thiện hệ thống pháp luật về Hội. Quan tâm nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp; tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động tham gia xây dựng chính sách, pháp luật; giám sát, phản biện xã hội; tư vấn và tuyên truyền phổ biến pháp luật của Hội Luật gia.

Tiếp tục đẩy mạnh cải cách tư pháp, đảm bảo thượng tôn pháp luật. Chú trọng nâng cao chất lượng đấu tranh phòng, chống tội phạm tham nhũng; nâng cao hiệu quả kiểm sát việc chấp hành pháp luật trong hoạt động tiến hành tố tụng.

VŨ DUY HÒA

Chủ tịch Hội Luật gia tỉnh Thanh Hóa

Thực hiện toàn diện và đồng bộ công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng

Những năm qua công tác xây dựng Đảng và thi hành Điều lệ Đảng đã được Trung ương và cấp ủy các cấp đặc biệt coi trọng, triển khai thực hiện toàn diện, đồng bộ với quyết tâm chính trị cao, nỗ lực lớn, hành động quyết liệt và đạt được nhiều kết quả rõ nét, góp phần quan trọng thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XII của Đảng.

Góp ý kiến vào các dự thảo văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng

Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng được thực hiện quyết liệt đã góp phần đấu tranh, ngăn chặn có hiệu quả tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý và người đứng đầu các tổ chức, cơ quan, đơn vị; xây dựng đội ngũ cán bộ có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức trong sáng, có trách nhiệm và động cơ đúng đắn, tiên phong, gương mẫu hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.

Cùng với đó, công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật Đảng được tăng cường, có nhiều đổi mới, tập trung vào những lĩnh vực, địa bàn dễ phát sinh tiêu cực, những nơi có vấn đề nổi cộm, gây bức xúc trong xã hội.

Qua công tác kiểm tra, giám sát, nhiều vụ việc phức tạp, tồn đọng, kéo dài đã được xem xét, kết luận và xử lý nghiêm minh. Kỷ luật, kỷ cương trong Đảng được siết chặt hơn, có tác dụng cảnh báo, cảnh tỉnh, răn đe, phòng ngừa sai phạm đối với tổ chức Đảng và cán bộ, đảng viên.

Công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng được lãnh đạo, chỉ đạo và thực hiện quyết liệt, toàn diện, đi vào chiều sâu, với quyết tâm chính trị rất cao, không có vùng cấm, không có ngoại lệ và đạt nhiều kết quả rất quan trọng, được cán bộ, đảng viên và Nhân dân đồng tình, ủng hộ, đánh giá cao, tệ nạn tham nhũng vì thế từng bước được kiềm chế, ngăn chặn.

Để khắc phục những hạn chế còn tồn tại trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đưa đất nước phát triển nhanh, bền vững trong những năm tới, tôi mong rằng Đại hội lần thứ XIII của Đảng sẽ tiếp tục coi trọng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ; nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền, sức chiến đấu của Đảng và hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước.

Cùng với đó, nâng cao hiệu quả công tác tư tưởng, tạo sự thống nhất trong Đảng, đồng thuận trong xã hội. Kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, coi trọng hơn nữa công tác đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.

Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược và người đứng đầu đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ. Đẩy mạnh đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, lãng phí. Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng và chất lượng đội ngũ đảng viên; phát huy tính tiền phong, gương mẫu, gần dân, trọng dân, hiểu dân của cán bộ, đảng viên.

Nguyễn Tiến Quynh

Phó Chủ tịch Hội Cựu chiến binh tỉnh Thanh Hóa

Quan tâm hơn nữa đến vấn đề Biển Đông; đầu tư nhiều hơn cho khu vực miền núi, đồng bào dân tộc thiểu số

Qua nghiên cứu Dự thảo văn kiện Đại hội XIII của Đảng, tôi nhận thấy văn kiện được xây dựng công phu, chất lượng, bố cục chặt chẽ, nội dung cụ thể, khoa học.

Góp ý kiến vào các dự thảo văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng

Dự thảo văn kiện đánh giá đúng tình hình đất nước trong 5 năm qua (2015 - 2020) và sau 35 năm đổi mới (1986 - 2020). Đặc biệt là đánh giá đúng tình hình phát triển của đất nước về mọi mặt.

Trên lĩnh vực kinh tế, văn kiện đã thể hiện rõ đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện so với những năm trước đổi mới. Đất nước chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín như ngày nay.

Những thành tựu đó đã tiếp tục khẳng định đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo, và khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn và xu thế phát triển của thời đại.

Trong quá trình tổ chức thực hiện Nghị quyết nhiệm kỳ qua, Trung ương đã thường xuyên, kịp thời đánh giá, dự báo tình hình trong nước và thế giới để điều chỉnh mục tiêu tăng trưởng kinh tế.

Sự phát triển của đất nước còn thể hiện rõ nhất là quan hệ hợp tác quốc tế. Từ việc mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế mà vai trò, vị thế của Việt Nam được nâng lên, nhiều nước trên thế giới biết đến Việt Nam, ký kết hợp tác phát triển với Việt Nam, và đây là điều kiện để đất nước ta nâng cao tầm và uy tín trên trường quốc tế.

Về công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng nhiệm kỳ qua, Đảng, Nhà nước đã làm rất tốt, quyết liệt xử lý nhiều vụ án kinh tế lớn và không có vùng cấm. Công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng được thực hiện mạnh mẽ, tích cực, tạo được niềm tin, sự đồng tình cao trong Nhân dân. Lĩnh vực quốc phòng - an ninh tương đối ổn định, không có vụ việc phức tạp, nổi cộm. Tình hình an ninh Biển Đông được quan tâm, giữ vững.

Tiếp tục phát huy những kết quả đạt được của nhiệm kỳ qua, trong phần phương hướng nhiệm kỳ tới, tôi mong muốn văn kiện đại hội quan tâm, chú trọng thêm giải pháp về những vấn đề liên quan đến Biển Đông vì những năm gần đây, tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông ngày càng phức tạp, trở thành một vấn đề “nóng”.

Tính chất phức tạp của vấn đề Biển Đông có nguy cơ đe dọa đến hòa bình, ổn định trong khu vực và toàn vẹn chủ quyền biển, đảo của nước ta. Do vậy, cần đưa vào dự báo tình hình, có phương pháp đấu tranh khéo léo giữ vững hòa bình trên Biển Đông, có chủ trương, sách lược ứng phó phù hợp.

Về công tác xây dựng Đảng, chú trọng xây dựng tổ chức Đảng trong sạch vững mạnh, tiếp tục quan tâm và kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi thủ đoạn, âm mưu diễn biến hoàn bình. Trong cuộc chiến chống tham nhũng cần kiên quyết xử lý những vụ tham nhũng lớn, nhưng không xem nhẹ chống tham nhũng vặt vì nó ảnh hưởng nhức nhối đối với cuộc sống hàng ngày và lòng tin của người dân.

Về công tác dân tộc, tôi mong muốn nhiệm kỳ tới, Đảng, Nhà nước quan tâm nhiều hơn đến việc nâng cao chất lượng đời sống người dân, nhất là vùng miền núi còn nhiều khó khăn.

Hiện nay, khoảng cách mức sống của người dân thành thị, nông thôn đồng bằng cách xa vùng miền núi, do đó cần quan tâm đầu tư cơ sở vật chất, phát triển sản xuất cho vùng miền núi. Phải có chính sách cụ thể để thực hiện đúng đối tượng, vùng miền.

Để Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII thành công tốt đẹp, tôi mong muốn Đại hội sẽ tập trung cao, phát huy trí tuệ tập thể bàn các giải pháp tổ chức thực hiện Nghị quyết XIII của Đảng thực sự đi vào cuộc sống.

Vũ Xuân Thu

Câu lạc bộ Hàm Rồng

Quan tâm phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao

Phát triển nông nghiệp công nghệ cao, đổi mới khoa học - công nghệ được coi là một trong những giải pháp then chốt, trọng tâm, giúp nông dân chủ động trong sản xuất, khắc phục được tính mùa vụ, giảm sự lệ thuộc vào thời tiết, khí hậu, đáp ứng nhu cầu thị trường về chất lượng nông sản.

Góp ý kiến vào các dự thảo văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng

Xác định tầm quan trọng của nông nghiệp ứng dụng công nghệ giúp thay đổi bức tranh nông nghiệp nước nhà, đưa nền nông nghiệp Việt Nam hội nhập và phát triển trong thời đại cách mạng công nghiệp 4.0, Hội nghị lần thứ 4, Ban Chấp hành trung ương Đảng (khóa XII) đã ban hành Nghị quyết số 06-NQ/TW, ngày 5 - 11 - 2016 về thực hiện có hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị - xã hội trong bối cảnh nước ta tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới nhấn mạnh những định hướng về phát triển nông nghiệp hiện đại, ứng dụng công nghệ cao.

Định hướng này cùng với những chính sách được ban hành trước đó về nông nghiệp công nghệ cao tiếp tục khẳng định quan điểm nhất quán của Đảng, Nhà nước ta về phát triển nông nghiệp, trong đó có nông nghiệp công nghệ cao. Qua đó góp phần tích cực đẩy mạnh ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất nông nghiệp, tạo động lực mới cho ngành nông nghiệp Việt Nam.

Dù có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển nhưng việc ứng dụng công nghệ cao vào nông nghiệp vẫn còn gặp phải không ít khó khăn. Mô hình sản xuất nông nghiệp này đồng nghĩa với việc tổ chức sản xuất phải được thực hiện trên quy mô tương đối lớn và đầu tư tương xứng về mặt hạ tầng, công nghệ sản xuất, trong khi dòng vốn đầu tư vào nông nghiệp tại nước ta còn thấp.

Bên cạnh đó, thiếu đất quy mô lớn để đầu tư ứng dụng khoa học - công nghệ theo vùng sản xuất tập trung; thị trường tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp công nghệ cao còn hạn hẹp, không ổn định; bất cập trong nghiên cứu, chuyển giao công nghệ; nhân lực còn hạn chế… là những rào cản cho phát triển nông nghiệp công nghệ cao thời gian qua.

Tháo gỡ những khó khăn này, thời gian qua, Đảng, Nhà nước đã quan tâm chỉ đạo và ban hành nhiều cơ chế, chính sách đặc thù, thu hút đầu tư vào sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao; hỗ trợ cho các doanh nghiệp và hộ nông dân sản xuất nông nghiệp công nghệ cao. Trong đó, việc thu hút đầu tư cho nông nghiệp, đặc biệt nông nghiệp công nghệ cao từ lâu được hưởng nhiều ưu đãi về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn, với chính sách cho vay tín chấp ở hạn mức phù hợp.

Cùng với đó, Chính phủ cũng dành nhiều nguồn lực tạo điều kiện cho nghiên cứu, chuyên giao công nghệ năng suất chất lượng nông sản; thực hiện chủ trương giao đất, giao rừng lâu dài cho người sử dụng, tạo điều kiện cho tích tụ và tập trung đất nông nghiệp theo nguyên tắc thị trường để hình thành nền nông nghiệp hiện đại…

Những chính sách tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy sản xuất nông nghiệp công nghệ cao phát triển đã khẳng định sự quan tâm đầu tư của Đảng, Nhà nước cho nông nghiệp, đặc biệt là nông nghiệp công nghệ cao.

Để khoa học - công nghệ thực sự thúc đẩy sự phát triển của ngành nông nghiệp, chúng tôi mong muốn thời gian tới Đảng, Nhà nước tiếp tục đẩy mạnh tái cơ cấu nông nghiệp, phát triển kinh tế nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới. Phát triển nông nghiệp hàng hoá tập trung quy mô lớn theo hướng hiện đại, ứng dụng công nghệ cao, nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững. Phát triển nông nghiệp xanh, sạch, thông minh, thích ứng với biến đổi khí hậu. Tổ chức sản xuất theo chuỗi giá trị, mạng sản xuất, nhân rộng mô hình liên kết trong sản xuất nông nghiệp. Hỗ trợ, khuyến khích phát triển kinh tế trang trại, hợp tác xã nông nghiệp và các tổ hợp tác. Khuyến khích, phát triển nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp sinh thái, hữu cơ.

Bên cạnh đó, các bộ, ngành, địa phương tiếp tục quan tâm hoàn thiện các chính sách khuyến khích, phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao. Cùng với đó cần đồng bộ trong toàn hệ thống để đưa các chính sách vào thực tiễn một cách thực sự, góp phần đưa nền nông nghiệp Việt Nam phát triển bền vững.

Lê Xuân Dương

Chủ tịch UBND thị trấn Vân Du, Thạch Thành


Mai Thị Hải

 {name} - {time}

 Trả lời

{body}
 {name}- {time}
{body}

0 bình luận

Ý kiến của bạn sẽ được biên tập trước khi đăng. Vui lòng gõ tiếng Việt có dấu

Địa phương

Xem thêm TP.Thanh Hóa

Thời tiết

Chia sẻ thông tin với bạn bè!
Tắt [X]