(Baothanhhoa.vn) - Đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ đã cống hiến trọn đời cho sự nghiệp cách mạng và cho lý tưởng cao đẹp của Đảng ta, Nhân dân ta. Cuộc đời hoạt động cách mạng của đồng chí là một tấm gương mẫu mực về phẩm chất cao quý của người cộng sản kiên trung, bất khuất.

Kỷ niệm 110 năm ngày sinh đồng chí Nguyễn Văn Cừ (9-7-1912 - 9-7-2022): Người chiến sĩ cộng sản kiên trung, bất khuất!

Đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ đã cống hiến trọn đời cho sự nghiệp cách mạng và cho lý tưởng cao đẹp của Đảng ta, Nhân dân ta. Cuộc đời hoạt động cách mạng của đồng chí là một tấm gương mẫu mực về phẩm chất cao quý của người cộng sản kiên trung, bất khuất.

Kỷ niệm 110 năm ngày sinh đồng chí Nguyễn Văn Cừ (9-7-1912 - 9-7-2022): Người chiến sĩ cộng sản kiên trung, bất khuất!Cố Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ.

Sinh ra trong một gia đình nhà nho nghèo, có truyền thống khoa bảng ở làng Phù Khê, xã Phù Khê, huyện Từ Sơn (nay là phường Phù Khê, TP Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh), từ năm 15 tuổi (1927), chàng trai trẻ Nguyễn Văn Cừ đã tham gia tổ chức Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên; năm 1928, tham gia vào các phong trào vận động quần chúng đứng lên đấu tranh chống sự áp bức bóc lột của thực dân Pháp và bè lũ tay sai. Cuối năm 1928, thực hiện chủ trương “vô sản hóa” của Kỳ bộ Thanh niên Bắc Kỳ, Nguyễn Văn Cừ ra mỏ Vàng Danh làm phu cuốc than để vừa rèn luyện, vừa thâm nhập trong phong trào công nhân, giác ngộ công nhân. Đến tháng 6-1929, Đông Dương Cộng sản Đảng ra đời, đồng chí trở thành đảng viên của Đảng và được phân công phụ trách các chi bộ ở Cẩm Phả, Cửa Ông.

Sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (tháng 2-1930), đồng chí được cử là Bí thư đặc khu Hòn Gai - Uông Bí và lãnh đạo phong trào cách mạng ở vùng mỏ phát triển mạnh mẽ. Tháng 2-1931, trên đường đi công tác từ Cẩm Phả về Hòn Gai, đồng chí bị thực dân Pháp bắt, đưa về giam ở nhà tù Hỏa Lò và bị kết án tù khổ sai, đày đi Côn Đảo. Năm 1936, trước áp lực của các cuộc đấu tranh mạnh mẽ của Nhân dân ta và phong trào Mặt trận nhân dân Pháp, đồng chí Nguyễn Văn Cừ và một số tù chính trị Côn Đảo được trả tự do. Đồng chí về Hà Nội, tìm bắt liên lạc với tổ chức đảng, lập ra Ủy ban sáng kiến, có vai trò như Xứ ủy lâm thời Bắc Kỳ. Tại Hội nghị Trung ương Đảng tháng 9-1937, đồng chí được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng và được cử vào Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương. Tháng 3-1938, tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng, đồng chí được bầu làm Tổng Bí thư của Đảng.

Khi nguy cơ chiến tranh thế giới đang đến gần, nhận thấy tình hình quốc tế đang có những chuyển biến bất lợi cho cách mạng, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ đã sớm đặt vấn đề thay đổi chiến lược của Đảng. Theo đó, đầu tháng 9-1939, đồng chí đã triệu tập và chủ trì hội nghị mở rộng Xứ ủy Bắc Kỳ, phổ biến tình hình và quyết định rút một số cán bộ vào hoạt động bí mật, phân công một số cán bộ Xứ ủy và Thành ủy Hà Nội đi xây dựng căn cứ ở các địa bàn chiến lược, chuẩn bị cơ sở cho cuộc đấu tranh vũ trang khi có điều kiện. Tháng 11-1939, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ triệu tập và chủ trì Hội nghị Trung ương lần thứ 6 tại Bà Điểm (Gia Định), quyết định việc thay đổi chiến lược cách mạng và thành lập Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương thay cho Mặt trận Dân chủ thống nhất Đông Dương. Quyết định thay đổi chiến lược và thay đổi phương pháp cách mạng trong tình hình mới của Hội nghị Trung ương 6 được khẳng định là rất đúng đắn, sáng suốt, thể hiện tư duy chính trị nhạy bén, năng lực sáng tạo lớn của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, đứng đầu là đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ. Nhờ đó, phong trào cách mạng Việt Nam có bước phát triển mới mạnh mẽ, tạo tiền đề tiến tới Cách mạng Tháng Tám 1945.

Giữa lúc phong trào cách mạng của dân tộc đang bước vào thời kỳ mới, ngày 18-1-1940, đồng chí Nguyễn Văn Cừ bị địch bắt tại đường Nguyễn Tấn Nghiêm, TP Sài Gòn. Ngày 23-11-1940, sau khi khởi nghĩa Nam Kỳ bùng nổ, thực dân Pháp khép đồng chí Nguyễn Văn Cừ vào tội đã thảo ra “Nghị quyết thành lập Mặt trận Thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương”, “chủ trương bạo động”, là người có trách nhiệm tinh thần trong cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ và kết án tử hình đồng chí. Ngày 28-8-1941, đồng chí Nguyễn Văn Cừ đã anh dũng hy sinh tại trường bắn Ngã Ba Giồng, xã Bà Điểm, huyện Hóc Môn, TP Sài Gòn.

Là người con ưu tú của quê hương Bắc Ninh và là hậu duệ đời thứ 17 của đại thi hào - danh nhân văn hóa thế giới Nguyễn Trãi, bởi vậy, từ sớm Nguyễn Văn Cừ đã ý thức trau dồi một phẩm chất cao quý là tinh thần say sưa học tập, rèn luyện và vươn lên không ngừng. Từ lúc bắt đầu hoạt động cách mạng cho đến khi bị thực dân Pháp xử bắn, dù chưa được học ở trường lớp lý luận nào nhưng bằng niềm tin và nghị lực, đồng chí đã trang bị cho mình nhiều kiến thức sâu rộng về khoa học chính trị và trở thành lãnh tụ cao nhất của Đảng. Đồng chí đã để lại nhiều tác phẩm giá trị như “Các quyền tự do dân chủ với Nhân dân Đông Dương”, trong đó nêu rõ: “Xứ Đông Dương hàng thế kỷ ở dưới chế độ phong kiến, rồi kế đến chế độ thuộc địa áp bức. Chánh sách thuộc địa câu kết với tàn tích phong kiến để thống trị xứ Đông Dương, nên chi dân xứ này chưa được hưởng cái mùi tự do dân chủ của hiện đại... Vậy Nhân dân Đông Dương có muốn hưởng các quyền tự do ấy, lẽ tất nhiên phải trải qua tranh đấu”.

Đặc biệt, tác phẩm “Tự chỉ trích”, được Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ viết tháng 6-1939, đã đóng góp quan trọng vào công tác xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Lần đầu tiên ở Việt Nam, một Tổng Bí thư của Đảng đã viết: “Những người cộng sản có bổn phận nói sự thật với quần chúng, dẫn đường cho quần chúng chớ không phải theo đuôi hay phỉnh họ”. Đồng thời, đồng chí cũng yêu cầu Đảng phải “Công khai, mạnh dạn, thành thực vạch những nhầm lỗi của mình mà tìm phương châm sửa đổi, chống những xu hướng hoạt đầu, thỏa hiệp, như thế không phải làm yếu Đảng mà là làm cho Đảng được thống nhất, mạnh mẽ”. Nhiều nhà nghiên cứu đã nhận định, tác phẩm “Tự chỉ trích” thể hiện tính minh triết trong tư duy chính trị của một lãnh tụ trẻ tuổi có chiều sâu trong tư duy; phản ánh sự sáng suốt của một tài năng lỗi lạc, dấu ấn đặc biệt của một người cộng sản dù mới chỉ được học tập lý luận chủ yếu trong lao tù đế quốc, nhưng bằng những hoạt động thực tiễn của mình đã khái quát được những vấn đề lý luận cách mạng hết sức sâu sắc, mang tính thời đại và còn nguyên giá trị cho đến ngày nay. Đây cũng là sự đóng góp vô cùng to lớn của Đảng ta trong việc làm giàu hơn kho tàng lý luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin từ sự đúc kết thực tế của phong trào cách mạng Việt Nam.

Trọn 29 tuổi đời với hơn 13 năm tham gia cách mạng, 7 năm bị giam cầm trong nhà tù đế quốc và hơn 2 năm giữ cương vị Tổng Bí thư của Đảng, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ đã cống hiến trọn đời cho sự nghiệp cách mạng, cho lý tưởng cao đẹp của Đảng và Nhân dân ta. Cuộc đời và sự nghiệp của đồng chí đã nêu một tấm gương sáng ngời về đạo đức cách mạng và lòng tin mãnh liệt ở lý tưởng cách mạng; về tình thương yêu, quý mến giai cấp công nhân và Nhân dân lao động; về lối sống giản dị, chan hòa cùng với Nhân dân và vì Nhân dân.

Khôi Nguyên



 {name} - {time}

 Trả lời

{body}
 {name} - {time}
{body}

0 bình luận

Ý kiến của bạn sẽ được biên tập trước khi đăng. Vui lòng gõ tiếng Việt có dấu

Địa phương

Xem thêm TP.Thanh Hóa

Thời tiết

Chia sẻ thông tin với bạn bè!
Tắt [X]