Về với xứ Thanh

Lam Kinh - Hào quang kinh thành cổ giữa đất Thanh

Hoàng Đông • 09:51 16/09/2025
Lam Kinh - Hào quang kinh thành cổ giữa đất Thanh

Cách trung tâm Thanh Hóa chừng 50km về phía tây, Khu di tích Lam Kinh nằm ẩn mình giữa miền quê trù phú. Nơi đây lưu giữ những công trình cổ kính gắn liền với trang sử hào hùng khi Lê Lợi - vị anh hùng áo vải Lam Sơn dựng cờ khởi nghĩa chống quân Minh xâm lược.

Cách trung tâm Thanh Hóa chừng 50km về phía tây, Khu di tích Lam Kinh nằm ẩn mình giữa miền quê trù phú. Nơi đây lưu giữ những công trình cổ kính gắn liền với trang sử hào hùng khi Lê Lợi - vị anh hùng áo vải Lam Sơn dựng cờ khởi nghĩa chống quân Minh xâm lược.

Cách trung tâm Thanh Hóa chừng 50km về phía tây, Khu di tích Lam Kinh nằm ẩn mình giữa miền quê trù phú. Nơi đây lưu giữ những công trình cổ kính gắn liền với trang sử hào hùng khi Lê Lợi - vị anh hùng áo vải Lam Sơn dựng cờ khởi nghĩa chống quân Minh xâm lược.

Lam Kinh - Khu di tích Quốc gia đặc biệt là dấu tích rực rỡ của triều Hậu Lê. Mỗi bước chân trên mảnh đất này như đưa du khách ngược dòng thời gian, chạm vào những truyền thuyết đậm màu huyền sử, về một triều đại từng hưng thịnh bậc nhất trong lịch sử.

Lam Kinh - Khu di tích Quốc gia đặc biệt là dấu tích rực rỡ của triều Hậu Lê. Mỗi bước chân trên mảnh đất này như đưa du khách ngược dòng thời gian, chạm vào những truyền thuyết đậm màu huyền sử, về một triều đại từng hưng thịnh bậc nhất trong lịch sử.

Lam Kinh - Khu di tích Quốc gia đặc biệt là dấu tích rực rỡ của triều Hậu Lê. Mỗi bước chân trên mảnh đất này như đưa du khách ngược dòng thời gian, chạm vào những truyền thuyết đậm màu huyền sử, về một triều đại từng hưng thịnh bậc nhất trong lịch sử.

Mùa xuân năm 1428, sau khi đánh tan quân Minh, Lê Lợi lên ngôi, lấy niên hiệu Lê Thái Tổ, đặt quốc hiệu Đại Việt. Dù đóng đô ở Thăng Long, ông vẫn cho xây dựng tại quê hương Lam Sơn một kinh thành nguy nga có tên là Lam Kinh với điện miếu trang nghiêm, lăng tẩm uy nghi, làm nơi thờ phụng tổ tiên và yên nghỉ cho các bậc đế vương nhà Lê.

Mùa xuân năm 1428, sau khi đánh tan quân Minh, Lê Lợi lên ngôi, lấy niên hiệu Lê Thái Tổ, đặt quốc hiệu Đại Việt. Dù đóng đô ở Thăng Long, ông vẫn cho xây dựng tại quê hương Lam Sơn một kinh thành nguy nga có tên là Lam Kinh với điện miếu trang nghiêm, lăng tẩm uy nghi, làm nơi thờ phụng tổ tiên và yên nghỉ cho các bậc đế vương nhà Lê.

Mùa xuân năm 1428, sau khi đánh tan quân Minh, Lê Lợi lên ngôi, lấy niên hiệu Lê Thái Tổ, đặt quốc hiệu Đại Việt. Dù đóng đô ở Thăng Long, ông vẫn cho xây dựng tại quê hương Lam Sơn một kinh thành nguy nga có tên là Lam Kinh với điện miếu trang nghiêm, lăng tẩm uy nghi, làm nơi thờ phụng tổ tiên và yên nghỉ cho các bậc đế vương nhà Lê.

Thế đất Lam Kinh vững chãi như ngai vàng: lưng tựa núi Dầu phía bắc, mặt hướng nam nhìn ra sông Chu, xa xa là núi Chúa làm bình phong. Bên tả là rừng Phú Lâm xanh thẳm, bên hữu là núi Hương và Hàm Rồng trấn giữ, tạo nên địa thế “tựa sơn đạp thủy” hiếm có.

Thế đất Lam Kinh vững chãi như ngai vàng: lưng tựa núi Dầu phía bắc, mặt hướng nam nhìn ra sông Chu, xa xa là núi Chúa làm bình phong. Bên tả là rừng Phú Lâm xanh thẳm, bên hữu là núi Hương và Hàm Rồng trấn giữ, tạo nên địa thế “tựa sơn đạp thủy” hiếm có.

Thế đất Lam Kinh vững chãi như ngai vàng: lưng tựa núi Dầu phía bắc, mặt hướng nam nhìn ra sông Chu, xa xa là núi Chúa làm bình phong. Bên tả là rừng Phú Lâm xanh thẳm, bên hữu là núi Hương và Hàm Rồng trấn giữ, tạo nên địa thế “tựa sơn đạp thủy” hiếm có.

Trước lối vào hoàng thành là sông Ngọc - con sông đào mềm mại như dải lụa xanh, khởi nguồn từ Tây Hồ. Bắc ngang sông Ngọc là Tiên Loan Kiều, cây cầu cánh cung thanh thoát, dẫn bước khách qua dòng nước xanh thẳm, tiến thẳng vào trung tâm chính điện Lam Kinh.

Trước lối vào hoàng thành là sông Ngọc - con sông đào mềm mại như dải lụa xanh, khởi nguồn từ Tây Hồ. Bắc ngang sông Ngọc là Tiên Loan Kiều, cây cầu cánh cung thanh thoát, dẫn bước khách qua dòng nước xanh thẳm, tiến thẳng vào trung tâm chính điện Lam Kinh.

Trước lối vào hoàng thành là sông Ngọc - con sông đào mềm mại như dải lụa xanh, khởi nguồn từ Tây Hồ. Bắc ngang sông Ngọc là Tiên Loan Kiều, cây cầu cánh cung thanh thoát, dẫn bước khách qua dòng nước xanh thẳm, tiến thẳng vào trung tâm chính điện Lam Kinh.

Cách cầu chừng 50m là giếng cổ Lam Kinh, từng rợp hương sen mỗi mùa hạ. Nước giếng xanh biếc, trong veo quanh năm không bao giờ cạn, bờ Bắc được kè bằng những bậc đá rêu phong, từng ngày cung cấp nguồn nước mát lành cho kinh thành xưa.

Cách cầu chừng 50m là giếng cổ Lam Kinh, từng rợp hương sen mỗi mùa hạ. Nước giếng xanh biếc, trong veo quanh năm không bao giờ cạn, bờ Bắc được kè bằng những bậc đá rêu phong, từng ngày cung cấp nguồn nước mát lành cho kinh thành xưa.

Cách cầu chừng 50m là giếng cổ Lam Kinh, từng rợp hương sen mỗi mùa hạ. Nước giếng xanh biếc, trong veo quanh năm không bao giờ cạn, bờ Bắc được kè bằng những bậc đá rêu phong, từng ngày cung cấp nguồn nước mát lành cho kinh thành xưa.

Bước vào khu chính điện, du khách đi qua Ngọ môn uy nghi với ba gian cân xứng. Gian giữa rộng nhất, hai gian bên nhỏ hơn, tất cả được dựng trên nền đá rộng hơn chục mét, dài hơn 14 mét. Giữa cổng sừng sững bốn cột gỗ to lớn, mỗi cột đường kính tới 78cm vững bền với thời gian.

Bước vào khu chính điện, du khách đi qua Ngọ môn uy nghi với ba gian cân xứng. Gian giữa rộng nhất, hai gian bên nhỏ hơn, tất cả được dựng trên nền đá rộng hơn chục mét, dài hơn 14 mét. Giữa cổng sừng sững bốn cột gỗ to lớn, mỗi cột đường kính tới 78cm vững bền với thời gian.

Bước vào khu chính điện, du khách đi qua Ngọ môn uy nghi với ba gian cân xứng. Gian giữa rộng nhất, hai gian bên nhỏ hơn, tất cả được dựng trên nền đá rộng hơn chục mét, dài hơn 14 mét. Giữa cổng sừng sững bốn cột gỗ to lớn, mỗi cột đường kính tới 78cm vững bền với thời gian.

Trên các cánh cửa Ngọ môn, những đường chạm khắc tinh xảo uốn lượn, khắc họa hoa văn và linh vật với nét chạm sâu, mềm mại, khiến gỗ như bừng sống dưới ánh nắng sớm.

Trên các cánh cửa Ngọ môn, những đường chạm khắc tinh xảo uốn lượn, khắc họa hoa văn và linh vật với nét chạm sâu, mềm mại, khiến gỗ như bừng sống dưới ánh nắng sớm.

Trên các cánh cửa Ngọ môn, những đường chạm khắc tinh xảo uốn lượn, khắc họa hoa văn và linh vật với nét chạm sâu, mềm mại, khiến gỗ như bừng sống dưới ánh nắng sớm.

Án ngữ trước Ngọ môn là đôi nghê đá uy nghi. Dù đầu và chân đã được phục dựng, phần lưng và bệ vẫn nguyên vẹn dấu tích hàng trăm năm, in hằn vết thời gian như chứng nhân thầm lặng của lịch sử.

Án ngữ trước Ngọ môn là đôi nghê đá uy nghi. Dù đầu và chân đã được phục dựng, phần lưng và bệ vẫn nguyên vẹn dấu tích hàng trăm năm, in hằn vết thời gian như chứng nhân thầm lặng của lịch sử.

Án ngữ trước Ngọ môn là đôi nghê đá uy nghi. Dù đầu và chân đã được phục dựng, phần lưng và bệ vẫn nguyên vẹn dấu tích hàng trăm năm, in hằn vết thời gian như chứng nhân thầm lặng của lịch sử.

Bước qua Ngọ môn, sân rồng mở ra thoáng đãng, trải dài ngang chính điện, ôm sát thềm hai dãy tả vu, hữu vu. Khoảng sân từng chứng kiến bao nghi lễ long trọng của triều đình xưa.

Bước qua Ngọ môn, sân rồng mở ra thoáng đãng, trải dài ngang chính điện, ôm sát thềm hai dãy tả vu, hữu vu. Khoảng sân từng chứng kiến bao nghi lễ long trọng của triều đình xưa.

Bước qua Ngọ môn, sân rồng mở ra thoáng đãng, trải dài ngang chính điện, ôm sát thềm hai dãy tả vu, hữu vu. Khoảng sân từng chứng kiến bao nghi lễ long trọng của triều đình xưa.

Bên phải sân rồng sừng sững cây đa thị cổ thụ, tán lá sum suê che mát cả một góc sân. Gốc cây xù xì, phải chục người vòng tay mới ôm trọn, thân cây như khoác trên mình màu áo của thời gian.

Bên phải sân rồng sừng sững cây đa thị cổ thụ, tán lá sum suê che mát cả một góc sân. Gốc cây xù xì, phải chục người vòng tay mới ôm trọn, thân cây như khoác trên mình màu áo của thời gian.

Bên phải sân rồng sừng sững cây đa thị cổ thụ, tán lá sum suê che mát cả một góc sân. Gốc cây xù xì, phải chục người vòng tay mới ôm trọn, thân cây như khoác trên mình màu áo của thời gian.

Chính điện Lam Kinh được thiết kế theo hình chữ “công”, gồm 3 tòa lớn, những công trình gỗ đồ sộ này dựng trên nền đất cao rộng, nổi bật với hàng cột cái vạm vỡ, đường kính tới 62cm, tỏa hương mộc trầm ấm.

Chính điện Lam Kinh được thiết kế theo hình chữ “công”, gồm 3 tòa lớn, những công trình gỗ đồ sộ này dựng trên nền đất cao rộng, nổi bật với hàng cột cái vạm vỡ, đường kính tới 62cm, tỏa hương mộc trầm ấm.

Chính điện Lam Kinh được thiết kế theo hình chữ “công”, gồm 3 tòa lớn, những công trình gỗ đồ sộ này dựng trên nền đất cao rộng, nổi bật với hàng cột cái vạm vỡ, đường kính tới 62cm, tỏa hương mộc trầm ấm.

3 tòa điện xếp nối nhau: phía trước là Quang Đức, giữa là Sùng Hiếu, sau cùng là Diên Khánh. Quang Đức và Diên Khánh đều có 9 gian, gian giữa rộng rãi nhất, hai gian đầu hồi thu hẹp chỉ 2m, tạo nên hành lang bao bọc lấy cả ba tòa, vừa kín đáo vừa bề thế.

3 tòa điện xếp nối nhau: phía trước là Quang Đức, giữa là Sùng Hiếu, sau cùng là Diên Khánh. Quang Đức và Diên Khánh đều có 9 gian, gian giữa rộng rãi nhất, hai gian đầu hồi thu hẹp chỉ 2m, tạo nên hành lang bao bọc lấy cả ba tòa, vừa kín đáo vừa bề thế.

3 tòa điện xếp nối nhau: phía trước là Quang Đức, giữa là Sùng Hiếu, sau cùng là Diên Khánh. Quang Đức và Diên Khánh đều có 9 gian, gian giữa rộng rãi nhất, hai gian đầu hồi thu hẹp chỉ 2m, tạo nên hành lang bao bọc lấy cả ba tòa, vừa kín đáo vừa bề thế.

Phía sau chính điện là Thái miếu Lam Kinh, quần thể gồm 9 tòa miếu uy nghi, thờ tự tổ tiên, các vị vua và hoàng thái hậu nhà Lê. Ngày nay, mới chỉ 5 tòa được phục dựng.

Phía sau chính điện là Thái miếu Lam Kinh, quần thể gồm 9 tòa miếu uy nghi, thờ tự tổ tiên, các vị vua và hoàng thái hậu nhà Lê. Ngày nay, mới chỉ 5 tòa được phục dựng.

Phía sau chính điện là Thái miếu Lam Kinh, quần thể gồm 9 tòa miếu uy nghi, thờ tự tổ tiên, các vị vua và hoàng thái hậu nhà Lê. Ngày nay, mới chỉ 5 tòa được phục dựng.

Năm 1962, Lam Kinh được xếp hạng Di tích lịch sử cấp Quốc gia, đến năm 2012 nơi đây vinh dự trở thành Di tích Quốc gia đặc biệt, minh chứng cho giá trị lịch sử, văn hóa trường tồn.

Năm 1962, Lam Kinh được xếp hạng Di tích lịch sử cấp Quốc gia, đến năm 2012 nơi đây vinh dự trở thành Di tích Quốc gia đặc biệt, minh chứng cho giá trị lịch sử, văn hóa trường tồn.

Năm 1962, Lam Kinh được xếp hạng Di tích lịch sử cấp Quốc gia, đến năm 2012 nơi đây vinh dự trở thành Di tích Quốc gia đặc biệt, minh chứng cho giá trị lịch sử, văn hóa trường tồn.

Lễ hội Lam Kinh diễn ra vào các ngày ngày 21 và 22 tháng 8 (Âm lịch), khi ấy người dân khắp vùng lại hội tụ về đây, trong tiếng trống rộn ràng, hương khói trầm mặc, để tri ân công đức các bậc anh hùng.

Lễ hội Lam Kinh diễn ra vào các ngày ngày 21 và 22 tháng 8 (Âm lịch), khi ấy người dân khắp vùng lại hội tụ về đây, trong tiếng trống rộn ràng, hương khói trầm mặc, để tri ân công đức các bậc anh hùng.

Lễ hội Lam Kinh diễn ra vào các ngày ngày 21 và 22 tháng 8 (Âm lịch), khi ấy người dân khắp vùng lại hội tụ về đây, trong tiếng trống rộn ràng, hương khói trầm mặc, để tri ân công đức các bậc anh hùng.

 {name} - {time}

 Trả lời

{body}
 {name} - {time}
{body}

0 bình luận

Ý kiến của bạn sẽ được biên tập trước khi đăng. Vui lòng gõ tiếng Việt có dấu

Có thể bạn quan tâm