{name} - {time}
Hành trình dựng xây cơ đồ Việt Nam hùng cường, thịnh vượng hôm nay, được đặt nền móng từ “cột mốc vàng” của Cuộc cách mạng mùa thu Tháng Tám cách đây tròn 8 thập kỷ. Và trên mỗi dấu chân bước vào kỷ nguyên mới, đều có ánh sáng “mặt trời cách mạng” mùa thu soi rọi, để dẫn dắt và cũng để nhắc nhớ chúng ta giá trị của độc lập, tự do, cùng một bài học đắt giá rằng: Mỗi trang lịch sử dân tộc vốn được viết bằng máu – dòng máu chắt từ tận cùng yêu thương, tận cùng đau thương, tận cùng hi sinh và tận cùng khát vọng hòa bình. Vậy nên, nếu hậu thế dám lãng quên, thì sẽ phải đổ thêm rất nhiều máu để viết lại lịch sử.
Thế giới bước sang thế kỷ XIX chứng kiến cuộc chạy đua ráo riết tìm kiếm thị trường và xâm lược thuộc địa của các nước đế quốc tư bản phương Tây. Lúc bấy giờ, một phương Đông kỳ bí, quyến rũ và giàu tài nguyên, trở thành đích đến của những đội truyền giáo, thương thuyền và theo sau là các hạm đội trang bị đầy súng ống. Dã tâm và lòng tham của đế quốc chĩa thẳng vào lục địa khép kín này và Việt Nam cũng không nằm ngoài họng súng kẻ thù.
Tháng 9/1858, thực dân Pháp nổ súng tiến công Đà Nẵng, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược nước ta. Đây cũng là lần đầu tiên trong lịch sử, dân tộc Việt Nam phải đương đầu với họa ngoại xâm là một cường quốc tư bản phương Tây vốn đi trước ta một phương thức sản xuất, với nền kinh tế phát triển, quân đội hùng mạnh được trang bị vũ khí, kỹ thuật quân sự tiên tiến. Song, dù đất nước lâm vào cảnh trì trệ, lạc hậu bởi sự thủ cựu, ích kỷ, hẹp hòi của triều đình nhà Nguyễn, thì cũng không ngăn cản được tinh thần yêu nước của nhân dân ta. Với quyết tâm sắt đá “Bao giờ nước Nam hết cỏ, thì mới hết người Nam đánh Tây”, nhiều cuộc khởi nghĩa của các văn thân, sỹ phu đã bùng nổ mạnh mẽ khắp trong Nam ngoài Bắc. Do đó, dù muốn tận dụng vũ khí hiện đại hòng đánh nhanh thắng nhanh, nhưng phải đến năm 1884, với Điều ước Patơnốt, thực dân Pháp mới đặt được nền thống trị lên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam.
Song, việc đặt bộ máy cai trị tàn bạo, hòng vơ vét tài nguyên và bóc lột dân ta bằng đủ loại thuế vô lý, dã man, chỉ càng khiến cho các cuộc đấu tranh, các phong trào yêu nước nổ ra khắp nơi. Tuy nhiên, do thiếu sự lãnh đạo của một lực lượng xã hội tiên tiến, có đường lối đúng đắn và phù hợp với khát vọng giải phóng dân tộc triệt để, nên các phong trào yêu nước chống Pháp đều thất bại. Đặc biệt, sự thất bại của phong trào Cần Vương được xem là thất bại của ý thức hệ phong kiến, thất bại của một chế độ xã hội đã suy tàn. Trong khi đó, các phong trào đòi tự do dân chủ đầu thế kỷ XX cũng lâm vào khủng hoảng, bế tắc “dường như bị chìm trong đêm tối không có đường ra”.
Giữa lúc nhân dân đang rên xiết dưới xiềng xích nô lệ, còn con đường giải phóng dân tộc thì bế tắc, thì cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại (1917) đã mở toang con đường đầy ánh sáng và hi vọng cho những dân tộc đang quằn quại dưới mấy tầng áp bức, bất công. Và rồi, hơn lúc nào hết, lịch sử gọi tên con người hội tụ đủ trí tuệ, bản lĩnh, ý chí, quyết tâm và niềm tin sắt đá, để đưa ánh sáng cách mạng và đưa chủ nghĩa xã hội khoa học về với dân tộc mình. Con người của những thời khắc, những quyết định lịch sử ấy chính là lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh.
Từ Luận cương của Lê Nin về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa và từ hành trình 30 năm bôn ba qua bốn châu lục Á, Âu, Phi, Mỹ, tìm hiểu kỹ bản chất của chủ nghĩa thực dân và chủ nghĩa đế quốc, nghiên cứu kinh nghiệm từ các cuộc cách mạng ở Mỹ, Anh, Pháp, Nga, Trung Quốc, Người đã tìm thấy chìa khóa mở ra chân trời mới cho dân tộc mình và cho cả những dân tộc bị áp bức trên thế giới, rằng “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản. Chỉ có CNXH, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”.
Để lãnh đạo cách mạng, cần một chính đảng vô sản đủ bản lĩnh, trí tuệ và tiêu biểu cho lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của cả dân tộc; đồng thời, trở thành lực lượng tiên phong duy nhất lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi vào quỹ đạo mới. Vì lẽ đó, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời ngày 3/2/1930 là một tất yếu khách quan của lịch sử. Từ khi Đảng ra đời, một mặt phải đấu tranh chống lại sự khủng bố gắt gao của thực dân Pháp, mặt khác đã phất cao ngọn cờ cách mạng nhằm tập hợp, lãnh đạo quần chúng tiến hành nhiều cuộc tập dượt đấu tranh lớn, nhất là các phong trào yêu nước những năm 1930-1931, 1936-1939, đã làm rung chuyển cả chế độ thuộc địa thực dân.
Bước vào những năm 1940, tình hình thế giới và trong nước biến đổi nhanh chóng. Lúc bấy giờ, lãnh tụ Hồ Chí Minh sau 30 năm bôn ba tìm đường cứu nước đã trở về Tổ quốc, để cùng với Trung ương Đảng trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Dưới ngọn cờ của Đảng và Bác Hồ, cách mạng Việt Nam từ năm 1941 đã đứng về phía Đồng minh chống phát xít. Đảng ta đã tổ chức và phát triển lực lượng, nhằm chuẩn bị điều kiện tiến lên giành thắng lợi quyết định khi thời cơ đến.
Đêm trước bình minh cách mạng, đất nước bao trùm trong không khí đặc quánh, ngột ngạt đau thương: thảm trạng chết đói năm Ất Dậu 1945. Đây là hậu quả tàn khốc của chính sách phá lúa trồng đay, vơ vét thóc gạo của phát xít Nhật và tay sai, cộng thêm thiên tai, dịch bệnh dẫn đến mùa màng thất bát, khiến nạn đói khủng khiếp lan khắp các tỉnh thành miền Bắc và Bắc Trung bộ, gieo rắc cái chết cho hơn 2 triệu đồng bào ta.
Từ những hình ảnh và ghi chép còn lại đến ngày nay, phần nào cho chúng ta hình dung được nạn đói năm Ất Dậu. Một trong số đó là bức thư của một học giả nước ngoài là Vespy (tháng 4/1945) viết về cảnh chết đói mà ông được chứng kiến: “Họ đi thành rặng dài bất tuyệt gồm cả gia đình, già lão có, trẻ con có, đàn ông có, đàn bà có, người nào người ấy rúm người dưới sự nghèo khổ, toàn thân lõa lồ, gầy guộc giơ xương ra run rẩy, ngay cả đến những thiếu nữ đã đến tuổi dậy thì, đáng lẽ hết sức e thẹn cũng thế. Thỉnh thoảng họ dừng lại để vuốt mắt cho một người trong bọn họ đã ngã và không bao giờ dậy được nữa, hay để lột miếng giẻ rách không biết gọi là gì cho đúng hãy còn che thân người đó. Nhìn những hình người xấu hơn con vật xấu nhất, nhìn thấy những xác chết nằm co quắp cạnh đường chỉ có vài nhành rơm vừa làm quần áo, vừa làm vải liệm, người ta thực lấy làm xấu hổ thay cho cái kiếp con người”.
Đói khát và chết chóc tưởng chừng đẩy dân tộc ta đến bờ diệt vong. Nhưng không, nỗi đau tột cùng đã đốt lên ngọn lửa căm hờn, phẫn uất trong các tầng lớp nhân dân. Và cũng chính ngọn lửa sục sôi ấy đã thôi thúc họ kiên quyết đứng lên sát cánh cùng Việt Minh “Phá kho thóc giải cứu nạn đói”. Đồng thời, muôn người như một đồng lòng tin theo lời hiệu triệu của Đảng: “Phát xít Nhật đã chết gục theo phát xít Đức, Ý. Quân đội Nhật đang bị tan rã và bị tước khí giới ở khắp các mặt trận. Quân Đồng minh sắp kéo vào Đông Dương. Giờ hành động quyết liệt đã đến. Đồng bào và các đoàn thể cứu quốc, dưới quyền chỉ huy của Ủy ban dân tộc giải phóng, Ủy ban khởi nghĩa hãy cùng với giải phóng quân và tự vệ đội nổi dậy đánh chiếm các đồn các huyện lỵ, phủ lỵ và các tỉnh ly, tước khí giới của giặc Nhật. Các đồng chí phải sáng suốt trong việc lãnh đạo và cương quyết hy sinh trong cuộc chiến đấu, để giành quyền độc lập cho Tổ quốc, để xứng đáng là một đội quân tiên phong của dân tộc. Giờ khởi nghĩa đã đến, ngày vinh quang của Tổ quốc đã bùng nổ. Quyết chiến, quyết chiến, quyết chiến! Thắng lợi nhất định về ta!”.
Có lẽ, kể từ những cuộc kháng chiến vệ quốc vĩ đại chống quân Nguyên - Mông xâm lược, hay chống lại sự đô hộ của nhà Minh, dân tộc ta mới lại chứng kiến một cảnh tượng hào hùng, một không khí sục sôi ý chí quyết chiến và quyết thắng đến thế. Toàn thể nhân dân Việt Nam bất kể già trẻ, gái trai đã nhất tề nổi dậy, tiến hành cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 “long trời lở đất”.
Dưới ngọn cờ vinh quang của Đảng và niềm tin sắt đá của nhân dân vào con đường đưa dân tộc thoát khỏi cảnh lầm than, Cách mạng Tháng Tám 1945 đã bùng nổ mạnh mẽ, đập tan xiềng xích đã trói buộc, ghì chặt nhân dân ta dưới thân phận nô lệ. Đó là thắng lợi của bản lĩnh, trí tuệ, sự lãnh đạo đúng đắn, tài tình của Đảng; đồng thời, là thắng lợi của ý chí, khát vọng hòa bình, độc lập, tự do của toàn thể dân tộc Việt Nam. Thắng lợi vĩ đại ấy có ý nghĩa và tầm vóc lớn lao, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Chẳng những giai cấp lao động và nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà giai cấp lao động và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng: Lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc”.
Bài học thành công của Cách mạng Tháng Tám đã được đúc rút, trong đó, một nhân tố quan trọng làm nên thắng lợi vĩ đại chính là đường lối của Đảng trong việc tập hợp hết thảy các lực lượng yêu nước, đoàn kết các dân tộc, cố kết toàn dân dưới ngọn cờ giải phóng Tổ quốc; tổ chức nhân dân thành một đội quân chính trị hùng hậu trên cơ sở liên minh công- nông. Đó là thắng lợi của đường lối đấu tranh kiên quyết và khôn khéo sử dụng các loại hình bạo lực cách mạng; kết hợp chính trị và vũ trang, trong đó, lấy lực lượng chính trị của quần chúng giữ vai trò quyết định; kết hợp nông thôn và thành thị; kết hợp các loại hình thức đấu tranh hợp pháp và không hợp pháp, từ thấp lên cao, từ khởi nghĩa từng phần tiến lên tổng khởi nghĩa...
Nếu Cách mạng Tháng Tám là mốc son bằng vàng, thì ngày 19/8/1945 sẽ mãi đi vào lịch sử như ngày khởi đầu của kỷ nguyên mới: Kỷ nguyên độc lập dân tộc và CNXH. Bởi, từ thắng lợi vĩ đại này, Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa đã được phôi thai. Nước Việt Nam từ một nước thuộc địa - nửa phong kiến trở thành một nước độc lập, tự do và dân chủ. Cách mạng Tháng Tám thành công cũng mở ra thời đại nước Việt Nam là của người Việt Nam, do người Việt Nam làm chủ vận mệnh đất nước, làm chủ vận mệnh của chính mình. Để từ đây, dân tộc ta sẽ tiến bước vào cuộc trường chinh mới: tranh đấu bảo vệ nền độc lập, tự do, thống nhất và phục hưng đất nước. Và đặc biệt, thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám cũng là thắng lợi của việc xây dựng một Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân, được vũ trang bằng chủ nghĩa Mác - Lênin ở một nước thuộc địa nửa phong kiến. Từ đó, bảo đảm cho Đảng luôn luôn có đường lối chính trị đúng đắn, có tư tưởng và hành động thống nhất, tổ chức đảng có chất lượng cao, trong sạch, vững mạnh và bám rễ rất sâu vào trong quần chúng nhân dân.
Mỗi bài học được đúc rút từ lịch sử dân tộc đều là bài học của máu xương, mồ hôi và nước mắt biết bao thế hệ người. Trong đó, một bài học đắt giá mà lịch sử đã và đang dạy chúng ta rằng, muốn có tương lai rạng rỡ thì không bao giờ được phép lãng quên quá khứ - nguồn cội. Bởi vì, “Cách hữu hiệu nhất để hủy diệt một dân tộc là phủ nhận và phá hủy sự thấu hiểu của họ về lịch sử của chính họ” (G.Orwell). Tròn 8 thập kỷ đã trôi qua, nhưng thắng lợi của cuộc cách mạng mùa thu Tháng Tám vẫn vẹn nguyên ý nghĩa lịch sử và giá trị thời đại. Để rồi, dưới sắc vàng trời thu rạng rỡ hòa quyện trong thanh âm lộng lẫy của khúc hoan ca hòa bình, chúng ta càng có niềm tin mãnh liệt vào sự trường tồn và vững mạnh của cơ đồ quốc gia- dân tộc Việt Nam trong thời đại mới!
Nội dung: Lê Dung
Ảnh: Tư liệu Internet
Đồ họa: Mai Huyền
Xuất bản: 2:19:08:2025:07:00
{name} - {time}