Về với xứ Thanh

Ngôi đền nghìn năm thờ nữ Anh hùng Triệu Thị Trinh

Hoàng Đông • 08:29 21/11/2025
Ngôi đền nghìn năm thờ nữ Anh hùng Triệu Thị Trinh

Đền Bà Triệu tọa lạc trên núi Gai, cách trung tâm Thanh Hóa khoảng 18 km về phía Bắc và cách Hà Nội gần 140 km về phía Nam, thuộc thôn Phú Điền (xã Triệu Lộc, Thanh Hóa). Đền được dựng từ thời Lý Nam Đế, nhằm tưởng nhớ công lao của nữ Anh hùng Triệu Thị Trinh, người đã đứng lên đánh đuổi quân Đông Ngô.

Đền Bà Triệu tọa lạc trên núi Gai, cách trung tâm Thanh Hóa khoảng 18 km về phía Bắc và cách Hà Nội gần 140 km về phía Nam, thuộc thôn Phú Điền (xã Triệu Lộc, Thanh Hóa). Đền được dựng từ thời Lý Nam Đế, nhằm tưởng nhớ công lao của nữ Anh hùng Triệu Thị Trinh, người đã đứng lên đánh đuổi quân Đông Ngô.

Đền Bà Triệu tọa lạc trên núi Gai, cách trung tâm Thanh Hóa khoảng 18 km về phía Bắc và cách Hà Nội gần 140 km về phía Nam, thuộc thôn Phú Điền (xã Triệu Lộc, Thanh Hóa). Đền được dựng từ thời Lý Nam Đế, nhằm tưởng nhớ công lao của nữ Anh hùng Triệu Thị Trinh, người đã đứng lên đánh đuổi quân Đông Ngô.

Tương truyền, trong một lần nam tiến đánh giặc, vua Lý Nam Đế đã vào đền cầu mong Bà Triệu phù hộ. Sau khi toàn thắng trở về, nhà vua quay lại tạ lễ và cấp tiền cho dân làng Bồ Điền tu sửa, mở rộng ngôi đền.

Tương truyền, trong một lần nam tiến đánh giặc, vua Lý Nam Đế đã vào đền cầu mong Bà Triệu phù hộ. Sau khi toàn thắng trở về, nhà vua quay lại tạ lễ và cấp tiền cho dân làng Bồ Điền tu sửa, mở rộng ngôi đền.

Tương truyền, trong một lần nam tiến đánh giặc, vua Lý Nam Đế đã vào đền cầu mong Bà Triệu phù hộ. Sau khi toàn thắng trở về, nhà vua quay lại tạ lễ và cấp tiền cho dân làng Bồ Điền tu sửa, mở rộng ngôi đền.

Trải qua nhiều lần bị tàn phá, đến thời vua Minh Mạng, đền được dời về vị trí hiện nay. Cuối thế kỷ XVIII, công trình được hoàn thiện với diện mạo gần như ngày nay. Đền được xây theo lối kiến trúc nội công ngoại quốc, gồm ba tòa chính: tiền đường, trung đường và hậu cung.

Trải qua nhiều lần bị tàn phá, đến thời vua Minh Mạng, đền được dời về vị trí hiện nay. Cuối thế kỷ XVIII, công trình được hoàn thiện với diện mạo gần như ngày nay. Đền được xây theo lối kiến trúc nội công ngoại quốc, gồm ba tòa chính: tiền đường, trung đường và hậu cung.

Trải qua nhiều lần bị tàn phá, đến thời vua Minh Mạng, đền được dời về vị trí hiện nay. Cuối thế kỷ XVIII, công trình được hoàn thiện với diện mạo gần như ngày nay. Đền được xây theo lối kiến trúc nội công ngoại quốc, gồm ba tòa chính: tiền đường, trung đường và hậu cung.

Nghi môn nội mang kiểu tam quan, gồm ba lối vào. Hai bên lối chính đặt đôi nghê đá cổ canh giữ.

Nghi môn nội mang kiểu tam quan, gồm ba lối vào. Hai bên lối chính đặt đôi nghê đá cổ canh giữ.

Nghi môn nội mang kiểu tam quan, gồm ba lối vào. Hai bên lối chính đặt đôi nghê đá cổ canh giữ.

Tiền đường, một trong ba điện thờ chính được xây ba gian hai chái. Trung đường gồm năm gian, mái cong hai tầng. Hậu cung có vị trí cao nhất, tựa lưng vào núi Gai, được dựng bằng gỗ, dài 2,45 m, rộng 6,9 m, mái cong theo phong cách truyền thống của đình chùa Việt.

Tiền đường, một trong ba điện thờ chính được xây ba gian hai chái. Trung đường gồm năm gian, mái cong hai tầng. Hậu cung có vị trí cao nhất, tựa lưng vào núi Gai, được dựng bằng gỗ, dài 2,45 m, rộng 6,9 m, mái cong theo phong cách truyền thống của đình chùa Việt.

Tiền đường, một trong ba điện thờ chính được xây ba gian hai chái. Trung đường gồm năm gian, mái cong hai tầng. Hậu cung có vị trí cao nhất, tựa lưng vào núi Gai, được dựng bằng gỗ, dài 2,45 m, rộng 6,9 m, mái cong theo phong cách truyền thống của đình chùa Việt.

Lối bậc thềm dẫn lên hậu cung nổi bật với cặp rồng đá xanh tạc nguyên khối, tạo vẻ uy nghi cho toàn bộ công trình.

Lối bậc thềm dẫn lên hậu cung nổi bật với cặp rồng đá xanh tạc nguyên khối, tạo vẻ uy nghi cho toàn bộ công trình.

Lối bậc thềm dẫn lên hậu cung nổi bật với cặp rồng đá xanh tạc nguyên khối, tạo vẻ uy nghi cho toàn bộ công trình.

Cách đền khoảng 500 m về phía Tây là khu lăng mộ Bà Triệu cùng mộ ba tướng họ Lý. Lăng nằm trên đỉnh núi Tùng - ngọn núi thuộc dãy Tam Đa, có địa hình xen lẫn đá vôi và đồi đất, chạy hướng Tây Bắc.

Cách đền khoảng 500 m về phía Tây là khu lăng mộ Bà Triệu cùng mộ ba tướng họ Lý. Lăng nằm trên đỉnh núi Tùng - ngọn núi thuộc dãy Tam Đa, có địa hình xen lẫn đá vôi và đồi đất, chạy hướng Tây Bắc.

Cách đền khoảng 500 m về phía Tây là khu lăng mộ Bà Triệu cùng mộ ba tướng họ Lý. Lăng nằm trên đỉnh núi Tùng - ngọn núi thuộc dãy Tam Đa, có địa hình xen lẫn đá vôi và đồi đất, chạy hướng Tây Bắc.

Khu lăng mộ được bao quanh bởi tường hoa theo bố cục hình vuông. Xưa kia, lăng xây bằng gạch, đến năm 2005, công trình được trùng tu, vẫn giữ nguyên hình dáng ban đầu nhưng thay toàn bộ bằng đá nguyên khối.

Khu lăng mộ được bao quanh bởi tường hoa theo bố cục hình vuông. Xưa kia, lăng xây bằng gạch, đến năm 2005, công trình được trùng tu, vẫn giữ nguyên hình dáng ban đầu nhưng thay toàn bộ bằng đá nguyên khối.

Khu lăng mộ được bao quanh bởi tường hoa theo bố cục hình vuông. Xưa kia, lăng xây bằng gạch, đến năm 2005, công trình được trùng tu, vẫn giữ nguyên hình dáng ban đầu nhưng thay toàn bộ bằng đá nguyên khối.

Cạnh ngôi mộ Bà là một bảo tháp cũng được tạc dựng bằng đá xanh nguyên khối kiên cố.

Cạnh ngôi mộ Bà là một bảo tháp cũng được tạc dựng bằng đá xanh nguyên khối kiên cố.

Cạnh ngôi mộ Bà là một bảo tháp cũng được tạc dựng bằng đá xanh nguyên khối kiên cố.

Dưới chân núi Tùng là phần mộ của ba tướng họ Lý: Lý Công Thành, Lý Công Hoằng và Lý Công Mỹ - những người làng Bồ Điền từng theo Bà Triệu đánh giặc.

Dưới chân núi Tùng là phần mộ của ba tướng họ Lý: Lý Công Thành, Lý Công Hoằng và Lý Công Mỹ - những người làng Bồ Điền từng theo Bà Triệu đánh giặc.

Dưới chân núi Tùng là phần mộ của ba tướng họ Lý: Lý Công Thành, Lý Công Hoằng và Lý Công Mỹ - những người làng Bồ Điền từng theo Bà Triệu đánh giặc.

Quần thể di tích đền Bà Triệu còn có các công trình phụ cận như miếu Bàn Thề, đền Đệ Tứ và đình Phú Điền, nơi Bà Triệu được tôn là thành hoàng làng.

Quần thể di tích đền Bà Triệu còn có các công trình phụ cận như miếu Bàn Thề, đền Đệ Tứ và đình Phú Điền, nơi Bà Triệu được tôn là thành hoàng làng.

Quần thể di tích đền Bà Triệu còn có các công trình phụ cận như miếu Bàn Thề, đền Đệ Tứ và đình Phú Điền, nơi Bà Triệu được tôn là thành hoàng làng.

Theo tư liệu lịch sử, Triệu Thị Trinh sinh năm 226 tại quận Cửu Chân (thuộc huyện Yên Định cũ của Thanh Hóa). Mồ côi cha mẹ từ nhỏ, bà sống cùng anh trai Triệu Quốc Đạt, một hào trưởng vùng Quan Yên. Năm 20 tuổi, Bà cùng anh chiêu mộ hàng nghìn nghĩa sĩ ở núi Nưa, dựng cờ khởi nghĩa chống quân Đông Ngô. Nghĩa quân nhanh chóng lớn mạnh và được nhân dân hưởng ứng rộng rãi. Khi Triệu Quốc Đạt mất, nghĩa binh tôn Triệu Thị Trinh làm chủ tướng.

Theo tư liệu lịch sử, Triệu Thị Trinh sinh năm 226 tại quận Cửu Chân (thuộc huyện Yên Định cũ của Thanh Hóa). Mồ côi cha mẹ từ nhỏ, bà sống cùng anh trai Triệu Quốc Đạt, một hào trưởng vùng Quan Yên. Năm 20 tuổi, Bà cùng anh chiêu mộ hàng nghìn nghĩa sĩ ở núi Nưa, dựng cờ khởi nghĩa chống quân Đông Ngô. Nghĩa quân nhanh chóng lớn mạnh và được nhân dân hưởng ứng rộng rãi. Khi Triệu Quốc Đạt mất, nghĩa binh tôn Triệu Thị Trinh làm chủ tướng.

Theo tư liệu lịch sử, Triệu Thị Trinh sinh năm 226 tại quận Cửu Chân (thuộc huyện Yên Định cũ của Thanh Hóa). Mồ côi cha mẹ từ nhỏ, bà sống cùng anh trai Triệu Quốc Đạt, một hào trưởng vùng Quan Yên. Năm 20 tuổi, Bà cùng anh chiêu mộ hàng nghìn nghĩa sĩ ở núi Nưa, dựng cờ khởi nghĩa chống quân Đông Ngô. Nghĩa quân nhanh chóng lớn mạnh và được nhân dân hưởng ứng rộng rãi. Khi Triệu Quốc Đạt mất, nghĩa binh tôn Triệu Thị Trinh làm chủ tướng.

Trước sức mạnh nghĩa quân, quân Đông Ngô phải huy động lực lượng lớn và nhiều tướng lĩnh dày dạn kinh nghiệm sang đàn áp. Do chênh lệch lực lượng và nhiều mưu kế hiểm độc, cuộc khởi nghĩa thất bại. Bà Triệu tuẫn tiết tại núi Tùng vào ngày 22/2 năm Mậu Thìn 248. Để tưởng nhớ công lao của Bà, nhân dân lập đền thờ và hương khói suốt nhiều thế kỷ.

Trước sức mạnh nghĩa quân, quân Đông Ngô phải huy động lực lượng lớn và nhiều tướng lĩnh dày dạn kinh nghiệm sang đàn áp. Do chênh lệch lực lượng và nhiều mưu kế hiểm độc, cuộc khởi nghĩa thất bại. Bà Triệu tuẫn tiết tại núi Tùng vào ngày 22/2 năm Mậu Thìn 248. Để tưởng nhớ công lao của Bà, nhân dân lập đền thờ và hương khói suốt nhiều thế kỷ.

Trước sức mạnh nghĩa quân, quân Đông Ngô phải huy động lực lượng lớn và nhiều tướng lĩnh dày dạn kinh nghiệm sang đàn áp. Do chênh lệch lực lượng và nhiều mưu kế hiểm độc, cuộc khởi nghĩa thất bại. Bà Triệu tuẫn tiết tại núi Tùng vào ngày 22/2 năm Mậu Thìn 248. Để tưởng nhớ công lao của Bà, nhân dân lập đền thờ và hương khói suốt nhiều thế kỷ.

Năm 2014, đền Bà Triệu được công nhận là Di tích quốc gia đặc biệt về lịch sử và kiến trúc nghệ thuật. Đến năm 2022, Lễ hội đền Bà Triệu được ghi danh là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.

Năm 2014, đền Bà Triệu được công nhận là Di tích quốc gia đặc biệt về lịch sử và kiến trúc nghệ thuật. Đến năm 2022, Lễ hội đền Bà Triệu được ghi danh là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.

Năm 2014, đền Bà Triệu được công nhận là Di tích quốc gia đặc biệt về lịch sử và kiến trúc nghệ thuật. Đến năm 2022, Lễ hội đền Bà Triệu được ghi danh là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.

Mỗi năm có hàng chục nghìn lượt du khách đến tham quan, đông nhất vào dịp lễ hội từ ngày 21 đến 23 tháng 2 âm lịch.

Mỗi năm có hàng chục nghìn lượt du khách đến tham quan, đông nhất vào dịp lễ hội từ ngày 21 đến 23 tháng 2 âm lịch.

Mỗi năm có hàng chục nghìn lượt du khách đến tham quan, đông nhất vào dịp lễ hội từ ngày 21 đến 23 tháng 2 âm lịch.