Năm 248, giữa lúc ách đô hộ nhà Ngô đã bành trướng khắp nơi, đặt Nhân dân ta dưới chế độ áp bức, bóc lột hà khắc khiến người người oán thán; thì cuộc khởi nghĩa do hai anh em Triệu Quốc Đạt và Triệu Thị Trinh khởi xướng, lãnh đạo đã bùng lên mạnh mẽ. Từ núi rừng Ngàn Nưa, nghĩa quân của Bà Triệu tiến về mảnh đất Bồ Điền xưa (xã Triệu Lộc, huyện Hậu Lộc ngày nay) để xây dựng căn cứ. Chính tại nơi đây, nghĩa quân Bà Triệu đã nhiều lần “tiếp đón sòng phẳng” các đợt tấn công vây ép của kẻ thù.
Để rồi trong trận quyết chiến cuối cùng mở vòng vây hãm của địch, Bà Triệu đã anh dũng hy sinh trên đỉnh núi Tùng (ngày 22 tháng 2 âm lịch năm Mậu Thìn 248). Mặc dù không đi đến cùng, song cuộc khởi nghĩa đã tạc vào sử sách dân tộc một trang vẻ vang, hào hùng và bi tráng. Đồng thời, tạo nên mốc son trong lịch sử anh hùng bất khuất chống giặc ngoại xâm của Nhân dân ta và là biểu tượng sáng ngời của lòng yêu nước, ý chí hiên ngang, khí phách quật cường của dân tộc ta.
Hình ảnh Bà Triệu mặc giáp vàng, cài trâm vàng, đi guốc ngà, cưỡi voi trắng oai phong lẫm liệt vẫn đi vào thơ ca: “Đầu voi phất ngọn cờ vàng / Giang sơn mấy cõi chiến trường xông pha”. Và đặc biệt là câu nói nổi tiếng, thấm đẫm khí phách của một đấng hào kiệt “đầu đội trời, chân đạp đất”: “Tôi muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng giữ, chém cá kình ở biển Đông, đánh đuổi giặc Ngô, giành lại giang sơn, cởi ách nô lệ, chứ không chịu khom lưng làm tỳ thiếp cho người”, đã trở thành biểu tượng của lòng yêu nước nồng nàn, thành “tuyên ngôn” về khát vọng độc lập, tự cường. Câu nói ấy đã theo dòng chảy lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta suốt hàng ngàn năm qua, để lay động trái tim và khơi dậy lòng tự hào dân tộc trong triệu triệu con người Việt Nam yêu nước.
Cũng bởi công đức cao dày đối với quê hương, đất nước, Bà Triệu đã được các vương triều phong kiến sắc phong “Thần” để phù trợ cho đất nước thoát khỏi họa xâm lăng và luôn hưng thịnh. Đặc biệt sau này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định Bà Triệu là anh hùng của dân tộc Việt Nam. Còn với người dân làng Phú Điền nói riêng, người dân xứ Thanh nói chung, tên tuổi và sự nghiệp của vị nữ tướng họ Triệu đã đi vào sử sách và sống trong lòng Nhân dân. Để tưởng nhớ công lao của Bà, Nhân dân lập đền dưới chân núi Gai, xây lăng, dựng tháp trên đỉnh núi Tùng để hương khói phụng thờ... Đó cũng chính là khởi nguồn hào hùng và bi tráng của lễ hội Đền Bà Triệu mà cho đến ngày nay, hậu thế đang được thừa hưởng, giữ gìn và phát huy giá trị.
Lễ hội đền Bà Triệu được tổ chức hàng năm, ngày chính hội đền là 22-2 (âm lịch) không chỉ nhằm tưởng nhớ công lao của Bà Triệu đối với dân tộc; mà hơn thế, trong tư tưởng và tâm thức dân gian, nhân vật lịch sử này đã hóa “Thần” và được “thiêng hóa”. Bởi vậy, Lễ hội đền Bà Triệu đã trở thành sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng độc đáo, có sức lan tỏa mạnh mẽ, giàu giá trị và đậm đà bản sắc dân tộc.
Phần lễ diễn ra với rất nhiều nghi thức cổ xưa, trang trọng và nghiêm cẩn, như lễ mộc dục, lễ giỗ, lễ trình, lễ rước kiệu, lễ tạ, tế cung đình, tế nữ quan… Cùng với phần lễ trang nghiêm, phần hội trở thành “sân khấu” trình diễn các trò chơi, trò diễn dân gian độc đáo, trong đó phải kể đến trò hội trận “Ngô - Triệu giao quân”, tái hiện lại các trận chiến ác liệt của nghĩa quân Bà Triệu và giặc Ngô. Ngày nay, phần lễ có thêm nhiều tiết mục sân khấu hóa, được dàn dựng công phu, hướng đến ca ngợi công lao của Bà Triệu, các tướng sĩ và nghĩa quân đối với lịch sử dân tộc.
Trong Lễ hội đền Bà Triệu, nghi thức rước kiệu (hay còn gọi là lễ rước bóng) là nghi thức đặc sắc, quan trọng và linh thiêng bậc nhất. Chính vì lẽ đó mà từ xưa, nghi thức này yêu cầu sự tham gia của hầu hết quan viên, chức sắc, kỳ lão và Nhân dân trong vùng. Khi chứng kiến sự trang trọng và hùng hậu của đoàn rước kiệu này, có người đã ví “đám rước như một con rồng lớn, lừng lững tiến trên đường làng”.
Đoàn rước kiệu gồm đội cờ đi trước (cờ tiết, cờ mạo, cờ ngũ hành, cờ tứ linh); theo sau là biển gỗ sơn son thếp vàng, ban chinh cổ (trống, chiêng), đội chấp kích và đồ bát tửu; tiếp đó là kiệu hương án và phường đồng văn, kiệu bát cống rước Vua Bà, kiệu song loan, kiệu long đình, kiệu võng… Điều đặc biệt đã khiến lễ rước kiệu trở nên độc đáo đó là hiện tượng “kiệu bay”. Khi đám rước đi qua các ngã ba, ngã tư hay trước khi đến sân đền, sân đình, kiệu sẽ quay tròn, khi tiến khi lui, lúc sang trái lúc sang phải… khó đoán định. Có nhận định cho rằng, “kiệu bay” trong Lễ hội đền Bà Triệu là một hiện tượng mang đậm tính tâm linh. Bởi, dường như có một sức mạnh vô hình đã “trợ” cho con người “bay lên” cùng cỗ kiệu rước Thần. Để rồi, trạng thái “lên đồng tập thể” ấy được xem như là sự thăng hoa, bay bổng của con người trong không gian thiêng.
Trải qua hơn 17 thế kỷ, với vô vàn biến thiên của thời gian và lịch sử, song giá trị và sức hấp dẫn của Lễ hội đền Bà Triệu vẫn luôn được khẳng định. Đây là một trong những lễ hội lâu đời nhất, có sức lan tỏa sâu rộng nhất và cũng giàu giá trị bậc nhất của xứ Thanh. Lễ hội này là sản phẩm tinh thần vừa có giá trị lịch sử, văn hóa, vừa được lưu giữ qua hệ thống di tích quốc gia đặc biệt; đồng thời, các nghi thức của lễ hội được thể hiện hay trình diễn bằng nhiều hình thức hình đặc sắc, vừa mang đậm tính dân gian lại vừa mang nhiều nét quy củ, trang nghiêm, thành kính của các lễ hội lịch sử. Không những thế, Lễ hội đền Bà Triệu còn thấm rất sâu vào tâm thức dân gian và có sức ảnh hưởng mạnh mẽ đến đời sống tinh thần, tâm linh của vùng đất Bồ Điền xưa (Triệu Lộc ngày nay) - vốn là nơi đã gắn chặt với tên tuổi và sự nghiệp của Bà Triệu, cũng đồng thời là cái “cái nôi” văn hóa đã góp phần ấp ủ, gìn giữ những giá trị văn hóa đặc sắc nhất của Lễ hội đền Bà Triệu.
Với những giá trị ấy, Lễ hội đền Bà Triệu đã chính thức được vinh danh trong kho tàng di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Đó là niềm vinh dự to lớn, cũng đồng thời là trách nhiệm đang đặt ra cho các cấp, các ngành, địa phương, đơn vị và cộng đồng trong việc gìn giữ, vun đắp và trao truyền. Bởi có như vậy di sản ấy mới luôn “sống” và làm giàu thêm đời sống văn hóa tinh thần con người. Đồng thời, để các giá trị đích thực của di sản sẽ luôn tỏa rạng và làm bừng sáng thêm bức tranh di sản văn hóa Việt Nam vốn phong phú, đa dạng, giàu có và đậm đà bản sắc dân tộc.