

Vào những năm 60 của thế kỷ XX, chiến lược “chiến tranh đặc biệt” ở miền Nam Việt Nam đứng trước nguy cơ bị phá sản, nhưng đế quốc Mỹ vẫn ngoan cố, muốn cứu vãn sự sụp đổ này bằng cách gây ra “chiến tranh phá hoại” ở miền Bắc hòng ngăn chặn sự chi viện của hậu phương lớn đối với tiền tuyến miền Nam và làm lung lạc ý chí chiến đấu của quân, dân ta.
Nếu Thanh Hóa là nơi căn bản của nước Nam, thì Hàm Rồng là vùng đất nằm ở vị trí trọng yếu của tỉnh Thanh Hóa. Vì thế, trong chiến tranh leo thang đánh phá miền Bắc, giới quân sự Mỹ xác định, từ Hà Nội vào đường mòn Hồ Chí Minh có 60 điểm tắc và Hàm Rồng được xem là “điểm tắc lý tưởng”. Từ Hàm Rồng theo đường thủy có thể vận chuyển bằng thuyền, xà lan, ca nô đi Hồi Xuân, La Hán, Bái Thượng... đi Nam Định, Hải Phòng và các tỉnh có biển ở miền Trung. Từ Quốc lộ 1A, đường bộ và đường sắt vận chuyển hàng hóa và hành khách vào các tỉnh phía Nam. Hàm Rồng cách thị xã Thanh Hóa chưa đầy 3km, là khu công nghiệp lớn của tỉnh với Nhà máy điện Hàm Rồng, Nhà máy phân lân Hàm Rồng, Lò cao Hàm Rồng, Xưởng tàu thuyền Hàm Rồng, Nhà máy xay Hàm Rồng...
Hàm Rồng có vị trí vô cùng “đắc địa” với dãy núi Vân Trang án ngữ ở phía Bắc (Hoằng Hóa), phía Tây Bắc có núi Phượng Lĩnh (Rừng Thông), phía Đông Nam là biển Đông, phía Đông Bắc có dãy Lạch Trường... Cầu Hàm Rồng được hai đỉnh núi Ngọc và núi Rồng che chắn. Chính “địa lợi” của Hàm Rồng mà đế quốc Mỹ đã phải hao tổn nhiều công sức, đưa ra lắm thủ đoạn và chuẩn bị kỹ lưỡng cho việc tấn công.
Phá sập cầu Hàm Rồng, Mỹ sẽ cắt đứt được “mạch máu” giao thông Bắc – Nam, đồng thời phá hoại nền kinh tế Thanh Hóa, gây hoang mang về chính trị, gây đình đốn nhiều ngành sản xuất, làm suy yếu vai trò của hậu phương lớn nhất miền Bắc đối với tiền tuyến miền Nam. Bởi thế, không quân Mỹ coi cầu Hàm Rồng là điểm tấn công quyết định, là mục tiêu “ưu tiên” trong cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ nhất. Tổng thống Mỹ Lydon B.Johnson tuyên bố: “Đã đến lúc Mỹ phải đánh tan ý chí của những mái đầu bạc Hà Nội và đánh gãy xương sống Quân đội Việt Nam bằng cách đánh ngay vào chiếc cầu thép mang tên Hàm Rồng”. Do đó, Hàm Rồng được Nhà Trắng và Lầu Năm Góc “ưu ái” bằng một kế hoạch đánh phá kỹ lưỡng với mọi thủ đoạn tàn bạo nhất có thể.




Mục tiêu chính của cuộc không kích cầu Hàm Rồng lần này được Mỹ giao cho Tập đoàn Không quân chiến thuật số 2 - “Anh cả đỏ” trong lực lượng không quân chiến thuật Mỹ và được trang bị máy bay F105 - loại máy bay tối tân, hiện đại nhất lúc bấy giờ. Loại máy bay này được mệnh danh là “thần sấm”, bởi dựa vào tiếng gầm rít của nó trên bầu trời để uy hiếp đối phương. Theo giới quân sự Mỹ, “khi một lực lượng máy bay thần sấm gầm rú trên đầu, đối phương không còn đủ bình tĩnh để ngắm bắn. Lúc ấy, những chiếc F105 cứ việc bổ nhào từng chiếc một mà ném bom”.
Nắm bắt được âm mưu, thủ đoạn của giặc Mỹ, được sự chỉ đạo của Trung ương Đảng, Chính phủ và Bộ Quốc phòng, quân và dân Thanh Hóa cùng với bộ đội đã bước vào cuộc chiến với tâm thế chủ động, sẵn sàng đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại của Mỹ. Lãnh đạo Quân khu 3 và Tỉnh ủy Thanh Hóa nhận định: “Trọng điểm đánh phá vào quân khu lúc này là Thanh Hóa, trọng điểm Thanh Hóa là Hàm Rồng, bảo vệ được cầu Hàm Rồng là góp phần bảo đảm giao thông thông suốt”.
Từ nhận định đúng đắn đó, những ngày cuối tháng 2, đầu tháng 3/1965, không khí chuẩn bị chiến đấu ở Hàm Rồng đã diễn ra vô cùng khẩn trương. Tỉnh ủy, Ban Chỉ huy Tỉnh đội Thanh Hóa đã chỉ đạo các cấp, các ngành tích cực xây dựng lực lượng, xây dựng thế trận chiến tranh Nhân dân, chuẩn bị nhiều phương án tác chiến bảo vệ các trọng điểm địch có thể đánh phá và chuyển mọi hoạt động của địa phương từ thời bình sang thời chiến. Nhiều phong trào thi đua sôi nổi như “ba sẵn sàng”, “ba đảm đang”, “tay cày tay súng”, “tay búa tay súng”... được phát động rộng khắp trong thanh niên, phụ nữ, nông dân. Các ngành y tế, giao thông, thông tin liên lạc, công nhân trong các nhà máy, xí nghiệp, hợp tác xã vừa sản xuất, vừa chuẩn bị phương tiện chiến đấu, vừa khẩn trương đào hầm hào, công sự, sẵn sàng tránh và đánh trả quân địch để bảo vệ cầu Hàm Rồng.
Để tăng cường lực lượng bảo vệ cầu Hàm Rồng, đầu năm 1965, Bộ Tổng Tư lệnh quân đội Nhân dân Việt Nam và Bộ Tư lệnh Quân khu 3 đã điều về Thanh Hóa Trung đoàn 13, pháo cao xạ 37 ly, thuộc Sư đoàn 213 đang huấn luyện ở Nam Định. Ngày 3/3/1965, Bộ Tư lệnh Phòng không không quân điều Tiểu đoàn 14, Sư đoàn 330, đang bảo vệ Thủ đô Hà Nội vào Thanh Hóa. Trước khi bước vào trận chiến đấu, Sư đoàn 304 và Sư đoàn 305 điều về Thanh Hóa 1 đại đội cao xạ 37mm và 1 đại đội 14,5mm. Tháng 3/1965, Tỉnh đội Thanh Hóa điều 1 trung đội 14,5mm và tập trung toàn bộ hỏa lực của dân quân tự vệ các khu vực lân cận về bảo vệ cầu Hàm Rồng…
Các lực lượng tham gia chiến đấu tại khu vực Hàm Rồng được tổ chức thành 5 cụm hỏa lực. Mỗi cụm hỏa lực đều có khả năng chiến đấu độc lập trên từng hướng và có thể phối hợp chặt chẽ với các đơn vị khác. Sở chỉ huy đặt tại núi Cuội, 2 đài quan sát đặt ở núi Mật và cao điểm 134. Hàm Rồng bước vào thử thách mà chưa thể hình dung ra được sự ác liệt và tầm vóc chiến tranh tới mức nào, nhưng trong tim khắc sâu lời hiệu triệu của Hồ Chủ tịch: “Tất cả chúng ta hãy đoàn kết triệu người như một. Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”.



Trong hai ngày 1 và 2/4/1965, Bộ Tổng tư lệnh nhận định “địch sẽ đánh lớn vào Hàm rồng ngày 3/4”. Đúng như dự đoán, 8 giờ 45 phút ngày 3/4/1965, địch đã ném bom đánh phá cầu Đò Lèn ở phía Bắc và cho máy bay tấn công các mục tiêu ở phía Nam nhằm cô lập Hàm Rồng để tấn công dứt điểm. Đến 13 giờ ngày 3/4/1965, đế quốc Mỹ huy động số lượng lớn máy bay phản lực và bom đạn thay nhau bổ nhào cắt bom vào mục tiêu nhỏ hẹp là cầu Hàm Rồng. Chỉ trong phút chốc, Hàm Rồng trở thành “chảo lửa” chiến tranh. Mỗi ngọn núi, dòng sông, công trường, nhà máy đều trở thành mục tiêu đánh phá ác liệt của địch.
Thực hiện mệnh lệnh “đánh chắc, đánh trúng, bắn rơi tại chỗ nhiều máy bay địch, bảo vệ mục tiêu, tiết kiệm đạn dược”, các lực lượng phòng không luôn trong tư thế sẵn sàng chiến đấu. Lệnh bắn phát ra từ sở chỉ huy, khi chiếc máy bay F105 bắt đầu bổ nhào. Tiếng hô “bắn” truyền lan khắp các trận địa từ bờ Bắc sang bờ Nam, mặc cho trên đầu rất nhiều máy bay gầm rú hòng gây sức ép hù dọa các pháo thủ. Chưa bao giờ có cuộc chạm trán khốc liệt với máy bay Mỹ nhiều đến thế. Các Đại đội 1 pháo 57 ly ở trận địa Đông Tác, Đại đội 4 trên đồi Không Tên, Đại đội 5 ở Đình Hương... chỉ chờ cho địch vào đúng cự ly là bắn. Tại Đại đội 17, pháo cao xạ 37 ly ở trận địa Yên Vực, bom bỏ làm bùn đất vùi lấp trận địa nhưng các pháo thủ vẫn không chịu rời vị trí. Khẩu đội trưởng Mai Đình Gần nhiều lần bị ngất đi, nhưng tỉnh lại vẫn tiếp tục chiến đấu.
Với lòng yêu nước nồng nàn, với tinh thần “Không có gì quý hơn độc lập tự do”, quân và dân Hàm Rồng, Nam Ngạn đã đoàn kết một lòng, phối hợp cùng với lực lượng phòng không không quân, hải quân Nhân dân hiệp đồng tác chiến chặt chẽ, đánh trả lưới lửa nhiều tầng của kẻ thù. Trước sức mạnh của không lực Hoa Kỳ chưa mấy ai hình dung nổi, quân dân ta đã đánh thắng ngay trận đầu và thắng một cách oanh liệt. Ngay trong ngày đầu tiên chiến đấu, quân và dân Hàm Rồng, Nam Ngạn đã bắn rơi 17 máy bay phản lực của Mỹ, trong đó có cả “thần sấm” F105 lần đầu tiên xuất hiện trên bầu trời miền Bắc. Cả nước hướng về Hàm Rồng mừng vui, động viên Hàm Rồng chiến thắng.



Nhận định địch chưa đánh gãy cầu Hàm Rồng, chắc chắn ngày mai chúng sẽ đánh ác liệt hơn. Ngay trong đêm đó, đông đảo tự vệ, dân quân các địa phương đã được điều đến các trận địa để tu bổ hầm hào, Bộ Tổng tư lệnh điều động tiếp 3 Đại đội pháo 57 của đoàn Tam Đảo hành quân cấp tốc từ phía Tây Nghệ An về Hàm Rồng để chuẩn bị cho một ngày chiến đấu dự báo là ác liệt hơn rất nhiều so với những gì đã diễn ra.
Không cam tâm chịu thất bại, 7 giờ 30 phút ngày 4/4/1965, Mỹ huy động hàng trăm chiếc máy bay hiện đại điên cuồng trút hàng nghìn tấn bom đạn xuống Hàm Rồng và những vùng phụ cận. Quân và dân Hàm Rồng chưa bao giờ tưởng tượng nổi địch lại dùng nhiều máy bay đến thế. Với quyết tâm “Tim có thể ngừng đập, nhưng đường không thể tắc”, lưới lửa phòng không của ta đã giáng trả bọn giặc trời những đòn thích đáng ở mọi tầng, mọi hướng, làm rối loạn địa hình địch từ xa khiến chúng không thể công kích mục tiêu như dự định. Những tên ngoan cố lọt đến gần cầu lập tức bị các trận địa cao xạ ở núi Ngọc, núi Rồng nổ súng chính xác, làm cho lũ giặc trời phải hoảng hốt ném bom bừa bãi rồi tháo chạy. Đến 17 giờ cùng ngày, trận chiến đấu vô cùng ác liệt kết thúc, quân dân Hàm Rồng, Nam Ngạn đã bắn rơi 30 máy bay Mỹ. Không ai tin được nhưng đó là sự thật.
Chỉ trong hai ngày 3 và 4/4/1965, Mỹ đã sử dụng 454 lần chiếc máy bay ồ ạt ném hàng nghìn tấn bom đạn xuống địa bàn Thanh Hóa. Riêng Hàm Rồng, địch bổ nhào 85 lần, cắt bom bắn phá 80 lần, ném 350 quả bom, bắn 149 quả đạn rốc két..., nhưng cầu vẫn đứng vững, hiên ngang nối đôi bờ sông Mã, trong khi đó 47 máy bay Mỹ phải bỏ xác. Đế quốc Mỹ đã phải cay đắng thú nhận “đây thực sự là hai ngày đen tối của không lực Hoa Kỳ”. Còn với quân và dân ta, đó là 2 ngày xác lập kỷ lục cho trận chiến chưa có trong tiền lệ để bảo vệ một cây cầu khiến dư luận nước Mỹ xôn xao, bạn bè yêu chuộng hòa bình trên thế giới khâm phục. Chiến công của quân và dân Hàm Rồng đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư khen. Bác viết: “Giỏi lắm! Nhân dân Hàm Rồng giỏi. Công nhân Hàm Rồng giỏi. Nông dân Hàm Rồng cũng giỏi. Cả bộ đội, dân quân Hàm Rồng đều giỏi. Cố gắng sản xuất và chiến đấu giỏi hơn nữa để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”.




“Quyết tử cho cầu Hàm Rồng đứng vững” là khẩu hiệu được viết bằng máu của nhiều lớp người đã chiến đấu và đã nằm lại bên chân cầu này. Từ trong mưa bom, bão đạn đã xuất hiện nhiều tấm gương chiến đấu anh dũng, kiên cường như nữ dân quân Ngô Thị Tuyển vác hòm đạn nặng 98kg, gấp đôi trọng lượng cơ thể tiếp tế cho bộ đội; dân quân Yên Vực chèo thuyền vượt sông Mã chở đạn dược cho bộ đội cao xạ; dân công làng Hạc Oa không quản hiểm nguy tiếp đạn, cứu thương cho các trận địa cao xạ đồi 75, C4, Quyết Thắng, Không Tên; các mẹ, các chị trong làng Đông Sơn nấu cơm đưa ra trận địa pháo cho bộ đội; nhà sư Đàm Xuân trụ trì chùa Mật Đa dỡ nhà làm hầm trú ẩn cho bộ đội, lấy cánh cửa chùa làm cáng cứu thương để lại tiếng thơm cho muôn đời; Nhân dân Hàm Rồng, Nam Ngạn, Yên Vực tình nguyện giao nhà cho bộ đội, đem hết tài sản, của cải vật chất phục vụ chiến đấu…
Chiến thắng Hàm Rồng không chỉ là niềm tự hào của Nhân dân Thanh Hóa, của dân tộc Việt Nam, đó còn là thắng lợi của đường lối chiến tranh Nhân dân, của ý trí kiên cường, bản lĩnh vững vàng, trí tuệ Việt Nam. Chiến thắng Hàm Rồng đã tiếp thêm niềm tin, ý chí để quân, dân cả nước tiếp tục tiến lên đánh thắng đế quốc Mỹ và tay sai, giành độc lập tự do, thống nhất đất nước. Ông M.Đa-ga-ren, Ủy viên Bộ Chính trị Trung ương Đảng Cộng sản Mỹ đã bày tỏ lòng ngưỡng mộ khi nói về Hàm Rồng: “Cầu Hàm Rồng là chiếc cầu đẹp nhất mà trước đây chúng ta chưa từng thấy, không phải vì nó rộng, nó dài, nó nguy nga hơn các cây cầu khác mà chính truyền thống anh hùng của các chiến sỹ và Nhân dân đã mang lại cho nó cái đẹp kỳ diệu… Cầu Hàm Rồng là một đài kỷ niệm về chủ nghĩa anh hùng cách mạng của Nhân dân Việt Nam”.



60 năm đã qua đi, nhưng khúc tráng ca Hàm Rồng chiến thắng vẫn còn đó, đồng vọng, ngân vang trong dặm dài lịch sử. Máu xương, mồ hôi và nước mắt của nhiều cán bộ, chiến sĩ, thanh niên xung phong, dân quân và các tầng lớp Nhân dân đã đổ xuống nơi tuyến lửa nóng bỏng để xây đắp nên tượng đài chiến thắng.Để hôm nay, sau 60 năm “cuộc đụng đầu” lịch sử diễn ra, tinh thần “Quyết thắng” vẫn tạc sâu vào đá núi. Dòng Mã giang huyền thoại vẫn mải miết chảy về đông và cây cầu Hàm Rồng hiên ngang bắc qua đôi bờ tả ngạn đi vào lịch sử như một trang huyền thoại đẹp của dân tộc.



