Thiết lập nền móng vững chắc, hay tạo dựng nên thế và lực căn bản từ những thành tựu có tính đột phá, để từ đó kiến tạo nên một tương lai rạng rỡ. Đó là mục tiêu, cũng là sự lựa chọn duy nhất đúng trên hành trình hiện thực hóa khát vọng Thanh Hóa văn minh, thịnh vượng, hạnh phúc.

Thanh Hóa - danh xưng đặc biệt đến nỗi tự bản thân nó là sự đan cài bền chặt của chiều sâu lịch sử và bề dày văn hóa. Có một câu đại ý rằng, nếu không có lịch sử thì không có tương lai và không có văn hóa thì không có dân tộc. Chính lịch sử và văn hóa là những nhân tố căn bản, là nền tảng góp phần định vị vai trò, vị thế của mảnh đất xứ Thanh trong tiến trình lịch sử dân tộc.

Trên mảnh đất mà “vẻ non sông tốt tươi chung đúc nên sinh ra nhiều bậc đế vương, khí tinh hoa tụ họp lại, nảy ra nhiều văn nho. Đến những sản vật quý cũng khác mọi nơi” này, tiến trình lịch sử dân tộc đã được đặt những nét bút sơ khai và không ít lần được viết lại bằng những chương rực rỡ bậc nhất. Nói một cách cụ thể hơn, thì Thanh Hóa không chỉ là cái nôi của người Việt cổ; mà trên mảnh đất vô vàn gian khó này, tổ tiên ta đã đặt những viên gạch đầu tiên của sự sáng tạo và dựng xây nên xã hội. Chưa hết, đây không chỉ là đất “thang mộc”, đất “căn bản” của nhiều triều đại phong kiến, nhiều bậc quân vương lẫy lừng; mà còn là sân khấu- nơi diễn ra những bản anh hùng ca vĩ đại của dân tộc, trên tiến trình định hình diện mạo và vị thế quốc gia trên trường quốc tế. Không chỉ có truyền thống lịch sử lâu dài, gắn liền với quá trình hình thành quốc gia - dân tộc, Thanh Hóa còn từng là “kinh sư chi thượng đô” của đất nước. Đó là Tây Đô - Thành Nhà Hồ; là Lam Kinh - “kinh đô tưởng niệm”, đất dựng cơ nghiệp của Vua Lê Thái Tổ; là Yên Trường hành tại của nhà Lê hồi đầu Trung hưng...

Theo PGS.TS Trần Thị An, để nói về các vùng và tiểu vùng văn hóa Việt Nam, khái niệm “địa linh nhân kiệt” có thể dùng cho nhiều nơi, nhưng xứ Thanh thực sự đặc biệt. Bởi đây là vùng đất phát tích của “tam vương nhị chúa” - những người làm nên những bước ngoặt lịch sử, định hình diện mạo lịch sử dân tộc trong những thời đoạn phục hưng vĩ đại; đồng thời, cũng tạo nên những sóng gió dữ dội trong các thời kỳ tao loạn của lịch sử dân tộc. Bấy nhiêu có lẽ phần nào đủ để chứng minh, tự bản thân cái danh xưng Thanh Hóa chính là biểu tượng của những giá trị. Đồng thời, truyền thống lịch sử và văn hóa đã tạo dựng nên cái “thế” của Thanh Hóa trong dòng chảy lịch sử. Cũng từ cái “vô lượng lịch sử” ấy, niềm khát khao rằng làm thế nào để Thanh Hóa có thể thoát khỏi những “trói buộc” của những khó khăn nội tại, để “bật” lên mạnh mẽ xứng với vị thế vùng đất, vẫn luôn âm ỉ cháy. Để rồi, niềm khát khao âm ỉ được thôi thúc qua nhiều thế hệ, đã đốt cháy lên ngọn lửa của tinh thần đoàn kết, quyết tâm đổi mới, nỗ lực sáng tạo, bền bĩ lao động, hăng say cống hiến. Từ đó, “phác họa” nên diện mạo và vị thế xứ Thanh không chỉ ở những nét sâu dày của truyền thống lịch sử, nét tinh tế của các vỉa tầng văn hóa; mà còn ở những nét bay bổng của khát vọng vươn lên, nét hào sảng của những thành tựu phát triển vượt bậc và rất đỗi tự hào.

Nếu lấy một vài con số để minh chứng về “nét bút hào sảng”, đang góp phần họa nên bức tranh kinh tế- xã hội xứ Thanh tươi mới và đầy hứa hẹn, hẳn là có không ít sự lựa chọn. Ví như, GRDP năm 2024 của Thanh Hóa đứng thứ 2 cả nước, với con số 12,16%. Đặc biệt, thu ngân sách Nhà nước đạt 55.585 tỷ đồng, cao nhất từ trước đến nay và chỉ đứng sau các đầu tàu tăng trưởng của cả nước như Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Bà Rịa - Vũng Tàu, Bình Dương, Đồng Nai và Quảng Ninh.

Nói một cách khiêm tốn, thì đây là những thành tựu có tính đột phá mà Thanh Hóa đạt được trong suốt mấy mươi năm tiến hành công cuộc đổi mới. Còn nói một cách tự hào, thì đây là những thành tựu có tính lịch sử. Bởi, đó không đơn giản là chỉ số tăng trưởng đơn thuần, hay kết quả thu ngân sách, mà là “trái ngọt” của một hành trình vượt khó không ngơi nghỉ, để đưa Thanh Hóa vươn lên những thứ hạng đầu trên thang bậc phát triển kinh tế - xã hội đất nước. Đó là những con số phản ánh sự quyết tâm, quyết liệt và trách nhiệm trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành của cấp ủy, chính quyền nhằm khơi thông nguồn lực và tận dụng, chắt chiu từng cơ hội, để chuyển hóa thành nền tảng cho phát triển. Đó là tinh thần đoàn kết, thống nhất, đồng sức, đồng lòng của cả hệ thống chính trị đến từng người dân và cộng đồng doanh nghiệp, để cùng chung ý chí, cùng chung khát vọng đưa Thanh Hóa ra khỏi vòng vây kìm hãm của sự trì trệ, lạc hậu, đói nghèo...

Những thành tựu kể trên đã và đang vun đắp nên nội lực quan trọng cho Thanh Hóa trên hành trình phát triển. Song, để tăng tốc mạnh mẽ hơn nữa, Thanh Hóa cần thêm trợ lực hay cơ chế, chính sách làm đòn bẩy. Chính vì đánh giá vị thế, tầm quan trọng của Thanh Hóa đối với sự phát triển đất nước, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 58 NQ/TW về xây dựng và phát triển tỉnh Thanh Hóa đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Cùng với đó, Quốc hội ban hành Nghị quyết số 37/2021/QH15 về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển tỉnh Thanh Hóa. Hai nghị quyết này có ý nghĩa hết sức đặc biệt, khi không chỉ mở ra đường hướng, mà còn tạo ra đòn bẩy cho phát triển nhờ các cơ chế có tính đặc thù. Đồng thời, đây được xem là tiền đề để Thanh Hóa xây dựng các cơ chế, chính sách về đầu tư, tài chính và phân cấp quản lý tổ chức và bộ máy, nhằm đầu tư hoàn thiện hệ thống kế cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, khai thác hiệu quả tiềm năng, lợi thế để thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.

Xác định, Nghị quyết số 58 NQ/TW và Nghị quyết số 37/2021/QH15 là thời cơ rất thuận lợi, mà nếu được nắm bắt và chuyển hóa hiệu quả, sẽ tạo ra “đôi cánh” để Thanh Hóa bật lên mạnh mẽ. Do đó, với sự linh hoạt, sáng tạo trong “điều khiển sắp đặt”, Thanh Hóa đã nhanh chóng cụ thể hóa mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp của các nghị quyết, nhất là nỗ lực cao nhất để phát huy hiệu quả của các cơ chế, chính sách đặc thù. Đó là nhanh chóng triển khai Quy hoạch tỉnh Thanh Hóa thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2045 và Quy hoạch chung đô thị Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa đến năm 2040. Đồng thời, xây dựng các nghị quyết đặc thù phát triển TP Thanh Hóa, TP Sầm Sơn, huyện Thọ Xuân và huyện Mường Lát. Đặc biệt, tập trung phát triển 4 trung tâm kinh tế động lực, 5 trụ cột tăng trưởng, 6 hành lang kinh tế và 8 chương trình trọng tâm, để tạo không gian mới cho phát triển kinh tế - xã hội.

Cái “thế” của Thanh Hóa trước hết được thể hiện qua vị trí địa - chính trị nếu không phải “rồng cuộn hổ ngồi” thì cũng hết sức quan trọng; đồng thời, được vun đắp qua trường kỳ lịch sử, với vô vàn biến cố, thăng trầm và một bề dày truyền thống văn hóa, thể hiện tầm cao trí tuệ con người. Vị trí địa lý và truyền thống lịch sử, văn hóa là nguồn sức mạnh nội sinh, là điều kiện “cần”. Còn điều kiện “đủ” là phải tích lũy đủ “lực” từ những thành quả phát triển, được chắt chiu qua nhiều thế hệ. Có như vậy thì thế và lực mới tạo ra nền móng vững chắc làm điểm tựa cho Thanh Hóa hiện thực hóa khát vọng thịnh vượng.

Trong bước chuyển mình của mùa xuân, dân tộc ta cũng đang đứng trước vận hội lớn để vươn mình mạnh mẽ. Trên đường băng phát triển đã được định hình, cuộc chạy đua để giành lấy những lợi thế, hay nắm bắt thời cơ thuận lợi, không cho phép bất kỳ sự thỏa mãn hay chậm trễ nào.

Nội hàm của khái niệm “kỷ nguyên mới” - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam, được các nhà khoa học, nhà nghiên cứu chỉ rõ: Đó là kỷ nguyên tăng tốc, bứt phá của dân tộc ta dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhằm hiện thực hóa mục tiêu xây dựng nước Việt Nam hùng cường, thịnh vượng, “sánh vai với các cường quốc năm châu”. Đồng thời, hiện thực hóa khát vọng phát triển toàn diện, ấm no, tự do, hạnh phúc của Nhân dân. Song, để tự tin bước vào kỷ nguyên mới, thì nhân tố căn bản hay động lực quan trọng nhất đó là phải phát huy cao độ truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường sự đồng thuận xã hội; đồng thời, khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, niềm tin và khát vọng cống hiến của mỗi người dân Việt Nam.

Trước vận hội phát triển mới của dân tộc, mỗi địa phương trong đó có Thanh Hóa càng phải nỗ lực tăng tốc để không bị bỏ lại phía sau. Song, để tăng tốc thì cần bệ phóng là nội lực mạnh mẽ và tầm nhìn đúng đắn. Ví như cánh diều muốn bay cao, bay xa luôn cần một điểm tựa chắc chắn dưới mặt đất. Khát vọng phát triển của dân tộc hay mỗi địa phương cũng vậy, đều cần có điểm tựa mặt đất là thế và lực mạnh mẽ. Đồng thời, cần một sự định hướng hay tầm nhìn đóng vai trò như “kim chỉ nam” - chính xác, phù hợp, sát thực tế, khoa học và có tính khả thi cao.

Với Thanh Hóa, từ sớm Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt kỳ vọng về một tỉnh kiểu mẫu. Để rồi, trải qua mấy mươi năm tiến hành công cuộc đổi mới, Thanh Hóa đã tích lũy được một nền tảng tương đối vững chắc, làm tiền đề để từng bước kiến tạo vóc dáng của một tỉnh kiểu mẫu.

Đặc biệt, Nghị quyết số 58-NQ/TW ngày 5/8/2020 của Bộ Chính trị (khóa XII) về xây dựng và phát triển tỉnh Thanh Hóa đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 và Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa lần thứ XIX, đã vạch rõ đường hướng và mục tiêu phát triển cho Thanh Hóa. Đó là, “phấn đấu đến năm 2025, trong nhóm các tỉnh dẫn đầu cả nước - một cực tăng trưởng mới, cùng với Hà Nội, Hải Phòng và Quảng Ninh tạo thành tứ giác phát triển ở phía Bắc của Tổ quốc; đến năm 2030 trở thành tỉnh công nghiệp theo hướng hiện đại, người dân có mức sống cao hơn bình quân cả nước”. Đây là mục tiêu lớn, trong khi cánh cửa bước vào năm 2025 đã mở ra. Thời gian không còn nhiều và do đó, nó không cho phép bất kỳ sự thỏa mãn hay mất tập trung nào. Ngược lại, cần sự đoàn kết, thống nhất cao độ để chuyển hóa các thời cơ, tiềm năng, nguồn lực thành lợi thế cho phát triển. Muốn vậy, việc khơi dậy và phát huy sức mạnh nội sinh của tinh thần yêu nước, ý chí tự lực, tự cường, khát vọng xây dựng và phát triển Thanh Hóa giàu đẹp, văn minh, hiện đại trong thời kỳ mới, vừa là nhiệm vụ vừa là giải pháp trọng tâm, xuyên suốt.

Để vững tin bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, thì một yếu tố nòng cốt là tạo dựng niềm tin và nhân lên sức mạnh Nhân dân, lấy dân là gốc; là coi trọng trí tuệ, trọng dụng nhân tài. Tin vào sức mạnh của Nhân dân là lẽ tất yếu, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định “trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của Nhân dân”. Lấy dân là gốc cũng chính là dựa vào tài dân, sức dân, lòng dân và quyền dân. Đồng thời, coi trọng và bồi đắp hiền tài như bảo vệ nguyên khí cho quốc gia hưng thịnh. Điều này càng đúng với Thanh Hóa, khi muốn phát triển nhanh và bền vững, thì sự đồng thuận, đồng lòng, đồng sức của mỗi người dân xứ Thanh sẽ trở thành trợ lực mạnh mẽ. Ngược lại, nếu thiếu đi sức mạnh, sự quyết tâm và sự tham gia của Nhân dân, thì sự nghiệp xây dựng Thanh Hóa thịnh vượng sẽ không có được điểm tựa mạnh mẽ. Nói cách khác, sự đồng lòng của Nhân dân là điều kiện tiên quyết để phát huy có hiệu quả ý chí, khát vọng phát triển quê hương giàu đẹp.

Nói về những yếu tố đang gây trở ngại, thậm chí là kìm hãm sự phát triển, Tổng Bí thư Tô Lâm đã nhiều lần nhấn mạnh đến 3 “điểm nghẽn”, đó là thể chế, hạ tầng và nhân lực. Đồng thời chỉ rõ, tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị vẫn còn cồng kềnh, nhiều tầng nấc, nhiều đầu mối; hiệu lực, hiệu quả hoạt động chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ. Đây cũng chính là những “xiềng xích” trói buộc, có thể khiến cho hành trình bước vào kỷ nguyên mới của dân tộc bị ảnh hưởng. Những vấn đề được Tổng Bí thư đặt ra, cũng chính là nhiệm vụ cấp thiết đang đặt ra cho mỗi địa phương, trong đó có Thanh Hóa lúc này. Để rồi, phải tháo cho được 3 “điểm nghẽn”, cũng như tập trung cao độ, thực hiện quyết liệt việc sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, bảo đảm đồng bộ, thông suốt, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Đó mới là giải pháp để có thể khơi thông nguồn lực cho phát triển kinh tế - xã hội địa phương.

Và suy cho cùng, để dẫn dắt công cuộc vươn mình của dân tộc, thì sứ mệnh lịch sử ấy chỉ có thể là Đảng Cộng sản Việt Nam. Để người cầm lái vĩ đại đưa dân tộc ta bứt phá mạnh mẽ, hơn lúc nào hết phải tập trung xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng. Đặc biệt, tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ, gắn bó mật thiết với Nhân dân để tạo dựng niềm tin của Nhân dân với Đảng và hệ thống chính trị. Đây cũng là nhiệm vụ cấp thiết đặt ra cho Thanh Hóa, với trọng tâm là xây dựng Đảng bộ tỉnh đoàn kết, vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh, ngăn chặn các biểu hiện quan liêu, tham nhũng, lãng phí. Chú trọng xây dựng văn hóa trong Đảng, trong hệ thống chính trị, nhất là văn hóa trong thực thi công vụ, văn hóa phục vụ Nhân dân của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức.

Xuân Nhâm Thìn cách đây hơn 70 năm, trong một bài viết gửi tạp chí nước ngoài, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Tương lai của dân tộc Việt Nam cũng tươi sáng như mặt trời mùa xuân”. Đúng như Người kỳ vọng, dân tộc ta đã tiến những bước vững chắc trên hành trình đi đến bến bờ phồn vinh, hạnh phúc. Đó là hành trình không ngừng tranh đấu, bền bĩ nỗ lực để hướng về tương lai rạng rỡ Việt Nam. Và, trên hành trình đi về phía ánh sáng ấy, xứ Thanh cần một tâm thế luôn sẵn sàng nắm bắt thời cơ, đối diện thách thức và nỗ lực, quyết tâm cao nhất, để cùng cả nước mở ra cánh cửa mang tên kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình mạnh mẽ của dân tộc Việt Nam.