Phát huy truyền thống yêu nước và cách mạng, sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, ngày 29/7/1930, Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa được thành lập, đánh dấu một bước ngoặt trọng đại. Từ đây phong trào cách mạng trong tỉnh có Đảng lãnh đạo trực tiếp vững bước vượt qua mọi thử thách cùng Nhân dân cả nước tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, cùng với khắc phục hậu quả chiến tranh, chống giặc đói, giặc dốt, thù trong giặc ngoài, Đảng bộ tỉnh đã chỉ đạo xây dựng hệ thống chính quyền trong toàn tỉnh, thực thi nhiều biện pháp sắc bén ngăn cản sự can thiệp của quân đội Tưởng Giới Thạch, cô lập bọn phản quốc, đấu tranh chống lại những phần tử phản động đội lốt thổ ty, lang đạo ở miền núi. Mặc dù bị địch đánh phá ác liệt từ nhiều hướng, nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa, quân và dân tỉnh nhà đã kiên cường chiến đấu bảo vệ quê hương, làm thất bại mọi mưu đồ của thực dân Pháp và bè lũ tay sai. Đồng thời, Thanh Hóa còn là căn cứ, chỗ dựa vững chắc đối với Đảng Nhân dân cách mạng và Chính phủ kháng chiến Lào, các cơ quan Trung ương, Khu III, Khu IV, các đại đoàn quân chủ lực Việt Nam, các đơn vị bộ đội tình nguyện giúp bạn Lào và hàng chục vạn đồng bào tản cư...

Trong 9 năm trường kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp kiên cường, bất khuất, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, của Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa, quân và dân tỉnh nhà đã đem hết tinh thần, nghị lực, máu xương, tài sản, thực hiện nghĩa vụ hậu phương, huy động cao nhất sức người, sức của, góp phần cùng cả nước làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ “Lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, thêu nên những “Vành hoa đỏ”, những “Thiên sử vàng” chói lọi trong lịch sử đấutranh của dân tộc Việt Nam, được Bác Hồ khen ngợi “...Tiếng Điện Biên Phủ đến đâu, đồng bào Thanh Hóa cũng có một phần vinh dự đến đó”.

Chiến dịch Điện Biên Phủ toàn thắng, ngày 21/7/1954, Hiệp định Giơnevơ về kết thúc chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương được ký kết, đây là thắng lợi to lớn trên con đường giải phóng dân tộc của Nhân dân ba nước Đông Dương nói chung và của Việt Nam nói riêng. Theo Hiệp định, đất nước ta tạm thời bị chia thành hai miền Nam - Bắc với vĩ tuyến 17 là ranh giới tạm thời, chờ cuộc tổng tuyển cử thống nhất hai miền.

Với thiện chí hòa bình, tăng cường đối thoại, tôn trọng và triệt để thi hành Hiệp định Giơnevơ, Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra cho cách mạng mỗi miền nhiệm vụ chiến lược phù hợp với tình hình mới. Một trong những nhiệm vụ quan trọng lúc này là bố trí lực lượng cán bộ, đảng viên ở lại miền Nam để lãnh đạo Nhân dân đấu tranh, buộc địch thực hiện nghiêm chỉnh Hiệp định Giơnevơ, đồng thời chuyển quân tập kết bộ đội, chiến sĩ miền Nam ra Bắc theo quy định. Đây không chỉ là đợt chuyển quân thông thường mà còn là chủ trương, chính sách về quản lý, đãi ngộ, sử dụng và bồi dưỡng, đào tạo một đội ngũ cán bộ, chiến sĩ vừa góp phần cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, vừa chuẩn bị lực lượng cho cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam sau này.

Theo đó, ngày 22/7/1954, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi toàn dân đoàn kết, đồng lòng thực hiện Hiệp định Giơnevơ; ngày 29/7/1954, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã gửi “Điện số 156/A” cho Trung ương cục Miền Nam về lựa chọn cán bộ ra Bắc tập kết và cán bộ để hoạt động ở Nam Bộ. Ngày 31/8/1954, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Chỉ thị số 87-CT/TW về đón tiếp bộ đội, thương binh, cán bộ và đồng bào miền Nam ra Bắc. Tháng 8/1954, Hội đồng Chính phủ họp dưới sự chủ tọa của Chủ tịch Hồ Chí Minh thông qua Đề án tổ chức Ban đón tiếp đồng bào, cán bộ, bộ đội miền Nam tập kết. Ban đón tiếp của Trung ương được thành lập gồm 7 bộ trưởng và chức vụ tương đương các ngành thuộc Chính phủ do ông Nguyễn Văn Tạo - Bộ trưởng Bộ Lao động làm Trưởng ban.

Thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh, với vị trí chiến lược và truyền thống cách mạng, Thanh Hóa được Trung ương Đảng tin tưởng, giao nhiệm vụ cùng với các địa phương: Hải Phòng, Thái Bình, Nghệ An đón tiếp đồng bào, cán bộ, chiến sĩ, học sinh miền Nam tập kết ra Bắc. Địa điểm tại Thanh Hóa được lựa chọn là Cửa Hới (nay là phường Quảng Tiến, TP Sầm Sơn).

Trong kháng chiến chống Pháp, Thanh Hóa là hậu phương lớn, đóng góp nhiều sức người, sức của cho tiền tuyến, lại bị chiến tranh và thiên tai tàn phá nặng nề. Thời điểm năm 1954, Đảng bộ, Nhân dân trong tỉnh đang thực hiện rất nhiều nhiệm vụ như: Tiến hành cải cách ruộng đất đợt 2; chống cưỡng ép giáo dân di cư vào Nam, hơn nữa tình trạng thiếu đói diễn ra gay gắt. Song, với tình cảm ruột thịt Bắc Nam, Tỉnh ủy Thanh Hóa đã khẩn trương chỉ đạo thành lập ban đón tiếp của tỉnh do ông Đỗ Văn Kiệm - Ủy viên Ủy ban Kháng chiến hành chính tỉnh làm trưởng ban và bộ máy điều hành với hàng trăm cán bộ giúp việc. Đồng thời, nhanh chóng triển khai các nhiệm vụ đón tiếp đồng bào, cán bộ, chiến sĩ, học sinh miền Nam (HSMN) ra tập kết một cách an toàn, chu đáo nhất. Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã trực tiếp lãnh đạo công tác đón tiếp đồng bào, cán bộ, chiến sĩ, HSMN ra tập kết sâu rộng trong toàn tỉnh, từ các cơ quan, đoàn thể cấp tỉnh xuống đến Nhân dân từng thôn, xóm. Các địa phương trong tỉnh tập trung cao độ, chuẩn bị tổ chức đón tiếp chu đáo đồng bào miền Nam. Các ngả đường quê hương Thanh Hóa đổ về Sầm Sơn tấp nập đông vui, hối hả, khẩn trương. Hàng ngàn công nhân, Nhân dân tự nguyện tham gia xây dựng các công trình đón tiếp đồng bào miền Nam. Hàng vạn cây nứa, cây luồng, cây gỗ, hàng vạn lá kè, hàng trăm tấn củi... từ miền núi Thanh Hóa đưa xuống kip thời để làm nhà đón tiếp, nhà ở, nhà ăn, giường nằm... khang trang, sạch đẹp.

Để đảm bảo sức khỏe cho đồng bào, cán bộ, chiến sĩ, HSMN ra tập kết, ngay từ những ngày đầu, Trung ương đã giao cho Thanh Hóa xây dựng một bệnh viện tranh tre nứa lá quy mô 800 giường bệnh do Bộ Y tế quản lý, có sự hỗ trợ kỹ thuật của Bệnh viện tỉnh. Thực hiện sự chỉ đạo của Tỉnh ủy, Ty Y tế Thanh Hóa đã thành lập ở Sầm Sơn một trạm cấp cứu, hai trạm khám sức khỏe ở hai xã Hoằng Lộc, Hoằng Quang (Hoằng Hóa). Bệnh xá ở Thiệu Đô (Thiệu Hóa) khám chữa bệnh cho các đồng chí, đồng bào miền Nam bị thực dân cầm tù, tra tấn ở nhà lao Chí Hòa và chữa bệnh cho các cháu thiếu nhi ra Bắc học tập.

Ngày 25/9/1954, tại bến Sầm Sơn Thanh Hóa (nay là cảng Lạch Hới, TP Sầm Sơn) rực rỡ cờ hoa chào đón chiếc tàu đầu tiên rẽ sóng tiến vào giữa tiếng hoan hô vang dậy của đồng bào Thanh Hóa đón những người con miền Nam ruột thịt ra Bắc tập kết. Đưa một số lượng rất lớn đồng bào, cán bộ, chiến sĩ, HSMN ra Bắc tập kết là các chuyến tàu biển rất lớn của Liên Xô và Ba Lan. Các tàu này không cập được bến Sầm Sơn, phải đậu cách xa đất liền vài cây số. Vì vậy, địa phương phải huy động, sử dụng các loại tàu, thuyền nhỏ để đưa đồng bào vào bờ. Có những chuyến tàu mất hai ngày mới chở hết đồng bào vào đất liền. Trong 9 tháng, từ tháng 9/1954 đến tháng 5/1955, toàn tỉnh đã đón 7 đợt, gồm 45 chuyến tàu, trong đó có 47.346 người là cán bộ, bộ đội; 1.775 thương binh; 5.922 học sinh và 1.443 gia đình cán bộ. Sau khi đồng bào, cán bộ, chiến sĩ, HSMN lên bờ được Ban đón tiếp và Nhân dân đưa vào các lán trại được chuẩn bị sẵn để nghỉ ngơi, chăm sóc, nhiều khi lán trại không đủ, Nhân dân Quảng Tiến đưa đồng bào về gia đình mình để chăm sóc. Nhân dân Thanh Hóa, trực tiếp là Nhân dân Sầm Sơn, mỗi người một việc, các tổ chức, đoàn thể, cá nhân đều được giao nhiệm vụ cụ thể. Các cháu thanh, thiếu nhi được giao nhiệm vụ nấu cơm, phục vụ hậu cần, tổ chức văn nghệ, công tác y tế, giáo dục, an ninh được đảm bảo.

Nhân dân các huyện miền xuôi hăng hái ủng hộ lương thực, thực phẩm, quần áo, chăn màn. Các huyện Nông Cống, Đông Sơn ủng hộ 600 con bò, 700 con lợn, 15.000 con gà vịt, 12 vạn quả trứng; Nga Sơn, Quảng Xương cung cấp 8.384 đôi chiếu; Thọ Xuân, Hoằng Hóa, Thiệu Hóa, Yên Định may 2.800 màn cá nhân, 1.000 màn đôi, 4.100 mền chăn và 1.450 cốt áo bông; Đông Sơn, Quảng Xương, thị xã Thanh Hóa cung cấp 49.000 bộ quần áo bà ba, 6.161 đôi dép cao su. Đồng bào các huyện trung du Thanh Hóa ủng hộ 20 vạn bao thuốc lá, trên 1 vạn kg cà chua, 3 tấn cá và 415kg mộc nhĩ.

Sau công tác đón tiếp an toàn, chu đáo đồng bào, cán bộ, chiến sĩ, HSMN tập kết ra miền Bắc được phân công ra khắp các tỉnh của miền Bắc như: Hà Nội, Ninh Bình, Nam Định, Hà Nam, Thái Bình, Hải Phòng... để lao động, học tập và công tác. Đối với đồng bào, chiến sĩ, HSMN ở lại, Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa xác định nhiệm vụ bố trí, sắp xếp công ăn việc làm, đảm bảo đời sống lâu dài là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của Đảng bộ và Nhân dân Thanh Hóa lúc này.

Đối với 5.735 em học sinh, sau khi chuyển về các tỉnh, còn lại ở Thanh Hóa là 2.631 em được chia về 12 trường trong 9 xã ở huyện Quảng Xương (cũ) như: Quảng Châu, Quảng Vinh, Quảng Thọ, Quảng Tâm, Quảng Định, Quảng Cát, Quảng Hải, Quảng Lưu, Quảng Lộc... Sau một thời gian học tập, đa số các em được chuyển ra các trường HSMN ở Hà Nội, Hải Phòng, Quế Lâm (Trung Quốc) tiếp tục học tập; Đối với các cụ miền Nam, được Đảng bộ, Nhân dân Thanh Hóa đón tiếp, nuôi dưỡng chu đáo. Tiêu biểu là huyện Vĩnh Lộc được chọn làm nơi đón tiếp 225 cụ miền Nam thuộc tỉnh Bình Định ra tập kết; Đối với các gia đình miền Nam, tính đến ngày 15/5/1955 ở Thanh Hóa có 90 gia đình, trong đó có 29 gia đình bộ đội và 61 gia đình cán bộ, dân, chính Đảng và công nhân viên cơ quan xí nghiệp. Một số gia đình được phân công về thị xã Thanh Hóa buôn bán, công tác ở các cơ quan của tỉnh và thị xã. Các gia đình làm nông nghiệp, tỉnh đã tiến hành xây dựng cơ sở đón tiếp về các xã: Yên Trường (Yên Định); Xuân Thành, Phú Yên (Thọ Xuân). Đối với 1.743 công nhân, tỉnh đã đưa về 5 công trường: Tĩnh Gia, Đông Quang, Tào Xuyên, Hoằng Lộc và Hà Trung làm nhiệm vụ sửa sang đường sá.

Nhiều cán bộ, chiến sĩ miền Nam tập kết đã xung phong, xung kích đi xây dựng các nông, lâm trường trên địa bàn tỉnh. Có 12 nông, lâm trường quốc doanh phần lớn là bộ đội chuyển ngành, cán bộ miền Nam tập kết. Tiêu biểu là: Vùng kinh tế Lam Sơn có 3 nông trường (Sông Âm, Lam Sơn, Thống Nhất); vùng kinh tế phía Bắc có 4 nông trường (Hà Trung, Vân Du, Thạch Thành, Thạch Quảng); vùng kinh tế phía Tây Nam có nông trường Yên Mỹ... Đồng bào, cán bộ, chiến sĩ ở lại xây dựng các nông, lâm trường coi Thanh Hóa như quê hương thứ hai của mình, có những đóng góp to lớn trong công cuộc xây dựng và phát triển của quê hương Thanh Hóa.

Trong 21 năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước, thực hiện đường lối chiến tranh Nhân dân và quốc phòng toàn dân, Đảng bộ Thanh Hóa đã phát động đồng bào các dân tộc không phân biệt giai cấp, tôn giáo, nghề nghiệp, giới tính, đoàn kết một lòng tiến hành cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, chấp nhận mọi khó khăn, thử thách, nêu cao khẩu hiệu hành động: “Thóc thừa cân, quân vượt mức”, “Xe chưa qua, nhà không tiếc”, “Tổ quốc cần người có người, cần của có của”, “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng giặc Mỹ xâm lược”. Thanh Hóa vừa là hậu phương lớn cung cấp sức người, sức của cho sự nghiệp cách mạng của cả nước, vừa là chiến trường nóng bỏng chôn vùi quân xâm lược. Lớp cha trước, lớp con sau, người trước ngã, người sau tiến lên, nhiều thế hệ con em Thanh Hóa đã xung phong ra mặt trận, có mặt trên khắp các chiến trường gay go, ác liệt nhất, lập nên những chiến công oanh liệt. Trong đó, hàng vạn người đã anh dũng hy sinh ở khắp các chiến trường. Ở hậu phương, với tinh thần vừa tích cực sản xuất, vừa sẵn sàng chiến đấu, quân và dân tỉnh ta đã lập nên những chiến công oanh liệt làm nức lòng bè bạn. Trong cuộc đọ sức ấy, nhiều địa danh, như: Hàm Rồng, Đò Lèn, Phú Lệ, Đảo Mê, Phà Ghép; những đơn vị, như: trung đội lão dân quân Hoằng Trường, trung đội dân quân gái Hoa Lộc... và còn rất nhiều tên người, tên đất, tên sông xứ Thanh đã đi vào lịch sử hào hùng chống giặc ngoại xâm của dân tộc, trở thành biểu tượng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong thời đại Hồ Chí Minh, góp phần xứng đáng để Tổ quốc “Khai hoa độc lập - kết quả tự do”, trong đó có một phần không nhỏ của đồng bào, cán bộ, chiến sĩ, HSMN tập kết đang sinh sống, học tập tại Thanh Hóa.

Thời gian 70 năm đã trôi qua, nhưng những tháng ngày học tập, rèn luyện trên đất Bắc, trên quê hương Thanh Hóa, được sự yêu thương, đùm bọc, chở che của người dân Thanh Hóa là hành trang, động lực mạnh mẽ để đồng bào, cán bộ, chiến sĩ, HSMN hiện thực hóa quyết tâm, thôi thúc phấn đấu, học tập, rèn luyện, từ đó đã nảy sinh ra nhiều “hạt giống đỏ” ươm mầm cho phong trào cách mạng miền Nam, đồng thời cũng khẳng định tên tuổi của mình trên mặt trận phát triển kinh tế - xã hội, góp phần làm giàu cho quê hương, đất nước. Nhiều đồng chí đã trở thành lãnh đạo cấp cao của Đảng, Nhà nước; nhiều đồng chí làm lãnh đạo các bộ, ban, ngành của Trung ương, của tỉnh và thành phố; nhiều nhà khoa học, văn nghệ sỹ, diễn viên, sỹ quan cao cấp, anh hùng lực lượng vũ trang Nhân dân, doanh nhân thành đạt... Những kết quả đó là minh chứng sinh động, không chỉ thể hiện tầm nhìn chiến lược sáng suốt mà còn thể hiện một tình cảm hết sức sâu nặng của Trung ương, của Bác Hồ, của Nhân dân miền Bắc đối với đồng bào miền Nam. Đây là tầm nhìn chiến lược sâu sắc của Đảng, Bác Hồ trong việc gieo những “hạt giống đỏ” ở miền Bắc trong những năm tháng chiến tranh, để xây dựng một đội ngũ cán bộ vừa “hồng”, vừa “chuyên” trong tiếp quản, tái thiết đất nước sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ thắng lợi.

Thanh Hóa năm xưa dẫu còn nhiều gian khó nhưng thắm đậm nghĩa tình đã chào đón, cưu mang những người con phương Nam ra tập kết. Ngày nay, vùng đất, con người xứ Thanh luôn tự tin, năng động, trưởng thành và hòa nhịp cùng sự đổi mới của đất nước. Thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng, Nghị quyết số 58-NQ/TW, ngày 5/8/2020 của Bộ Chính trị về xây dựng và phát triển tỉnh Thanh Hóa đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIX, nhiệm kỳ 2020-2025, Đảng bộ, Nhân dân các dân tộc tỉnh Thanh Hóa đã tập trung triển khai nhiều chủ trương, giải pháp phù hợp, đúng đắn, nên mặc dù gặp rất nhiều khó khăn, thách thức, nhất là những ảnh hưởng nặng nề bởi dịch bệnh COVID-19, nhưng bức tranh tổng thể kinh tế - xã hội của tỉnh Thanh Hóa vẫn tiếp tục khởi sắc mạnh mẽ, có thể khẳng định chưa bao giờ Thanh Hóa có được tiềm lực và vị thế như ngày nay; đó là cơ sở, điều kiện để Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân các dân tộc trong tỉnh tiếp tục vững bước tiến lên, góp phần cùng cả nước thực hiện thắng lợi mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và chủ động hội nhập quốc tế.

Thời gian đã lùi xa, nhưng sự kiện đón tiếp cán bộ, chiến sĩ, đồng bào, HSMN tập kết ra Bắc cách đây 70 năm mãi mãi là mốc son chói lọi, để lại nhiều bài học quý, sống động, Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân các dân tộc Thanh Hóa luôn ghi nhớ, khắc sâu, phát huy và nâng lên tầm cao mới những bài học đó trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Để sớm hiện thực hóa mục tiêu xây dựng và phát triển Thanh Hóa “đến năm 2025, trong nhóm các tỉnh dẫn đầu cả nước - một cực tăng trưởng mới ở phía Bắc của Tổ quốc; đến năm 2030 trở thành tỉnh công nghiệp theo hướng hiện đại; đến năm 2045 là tỉnh giàu đẹp, văn minh và hiện đại, tỉnh phát triển toàn diện và kiểu mẫu của cả nước” như Nghị quyết số 58-NQ/TW của Bộ Chính trị và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIX đã đề ra.

Nội dung: Đào Xuân Yên

Ủy viên Ban Thường vụ, Trưởng ban Tuyên giáo Tỉnh ủy